Home TRANG CHỦ Thứ 6, ngày 19/04/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Web Sites & Commerce Chuyên đề
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Finance & Retail Thư viện điện tử
Công trình nghiên cứu về Ký sinh trùng
Công trình nghiên cứu về Sốt rét & SXH
Công trình nghiên cứu về Côn trùng & véc tơ truyền
Đề tài NCKH đã nghiệm thu
Thông tin-Tư liệu NCKH
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 2 4 6 5 3 8 4
Số người đang truy cập
2 9 6
 Thư viện điện tử
Trả lời bạn đọc những câu hỏi về y tế và chuyên ngành ký sinh trùng tháng 5 năm 2015

Lê Quốc D. 34 tuổi, TP. Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Hỏi: Xin chào ban biên tập website của Viện Sốt rét ký sinh trùng Quy Nhơn, mẹ tôi đang trong giai đoạn tiền mãn kinh đã trên 10 năm nay, bà muốn đi đo loãng xương, song tôi và gia đình thường xuyên bổ sung thức ăn và thuốc có chất khoáng cho bà, nên nghĩ rằng không có vấn đề gì, bà cứ đề nghị luôn, chúng tôi không biết liệu đo loãng xương hiện nay như quản cáo có chính xác hay không và có giá trị như thế nào, xin quý bác cho tôi mọt lời khuyên!

Trả lời:

Xin cảm ơn bạn đã gởi đến chúng tôi một câu hỏi liên quan đến phụ nữ tuổi sau mãn kinh có loãng xương, chúng tôi nghĩ rằng đây cũng là một vấn đề rất nhiều người phụ nữ đang quan tâm. Rất tiếc, chúng tôi đang làm công tác truyền nhiễm, ký sinh trùng và côn trùng, chứ không thuộc chuyên khoa dinh dưỡng và chăm sóc hậu mãn kinh như vậy. Do đó, chúng tôi có tham khảo một ý kiến chuyên gia, đó là bài viết của TS.BS. Mai Thị Minh Tâm đề cập sâu về vấn đề này.
 

Trước hết, chúng ta cần biết rằng Ai nên đo mật độ xương?

Phụ nữ sau mãn kinh hoặc mãn kinh sớm, người già, mất xương tăng theo tuổi, những người có ông, bà, bố, mẹ bị loãng xương, những người có cuộc sống tĩnh tại, ít vận động. Bệnh nhân điều trị bằng corticoides kéo dài và thuốc chống co giật. Phụ nữ trẻ chán ăn do mắc chứng tâm thần. Nam giới uống nhiều rượu hoặc hút nhiều thuốc lá, những người thấp bé nhẹ cân hay chỉ số khối cơ thể dưới 19 (kg/m2). Mất chất khoáng và biến dạng đốt sống, những người mắc các bệnh nội tiết như suy giảm nội tiết tố, cường giáp hoặc điều trị bằng thuốc thyroxine, bệnh nhân mắc các bệnh khớp viêm mạn tính như viêm khớp dạng thấp và viêm cột sống dính khớp, bệnh nhân trước đó bị gãy khớp háng.

Trong điều trị loãng xương ở người cao tuổi cần lưu ý điều gì?

Phụ nữ thời kỳ sau mãn kinh, do giảm các hormon sinh dục nên hay mắc chứng bệnh loãng xương. Ở nam giới ngoài tuổi 60 cũng có hiện tượng giảm nồng độ hormon gây ra bệnh loãng xương. Phụ nữ thời kỳ sau mãn kinh, do giảm các hormon sinh dục nên hay mắc chứng bệnh loãng xương. Ở nam giới ngoài tuổi 60 cũng có hiện tượng giảm nồng độ hormon gây ra bệnh loãng xương. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, loãng xương là một bệnh xương toàn thân do giảm sức chống đỡ của hệ xương và làm tăng nguy cơ gãy xương. Khả năng chống đỡ của xương được đánh giá bởi mật độ khoáng của xương và chất lượng xương. Để đánh giá mật độ xương, ngày nay ở Việt Nam đã có nhiều máy đo được mật độ xương ở cổ xương đùi, cột sống thắt lưng và đo toàn thân. Các nhóm tuổi cần chú ý khi điều trị loãng xương: Nhóm tuổi 50-60, đây là nhóm tuổi sau mãn kinh đối với nữ. Nhóm tuổi 60 - 80 cả nam và nữ. Nhóm tuổi trên 80 cả nam và nữ.

Tại sao phải điều trị loãng xương?

Sự mất xương diễn ra từ từ, loãng xương được coi là bệnh thầm lặng. Bởi vậy khi bệnh nhân xuất hiện cơn đau cấp ở vùng lưng hay mạng sườn và đau tăng khi thay đổi tư thế, trên phim chụp cột sống đoạn lưng/ hay đoạn thắt lưng thấy xẹp lún đốt sống gọi là tình trạng loãng xương nặng. Loãng xương thường dẫn đến gãy xương. Trong cộng đồng người ta thấy tần suất gãy xương do loãng xương rất thường gặp, đặc biệt ở phụ nữ sau mãn kinh thường hay bị xẹp lún đốt sống.

Ở nam giới thường hay bị gãy cổ xương đùi. Ngoài ra, gãy đầu dưới xương quay. Ngày nay , tuổi thọ được nâng cao tuy nhiên tuổi gãy xương thường gặp sau 65 tuổi. Gãy xương chi phí điều trị tốn kém, đối với gãy cổ xương đùi tăng tỷ lệ tử vong trong năm đầu tiên và để lại di chứng nặng nề, ảnh hưởng chất lượng sống, tiên lượng rất xấu. Ở bệnh nhân loãng xương đã gãy xương không chỉ gãy một lần mà còn gãy nhiều lần, đồng nghĩa việc tái phát gãy xương rất cao. Điều trị với mục đích giảm đau nhanh cho bệnh nhân trong trường hợp đau cấp do gãy xương và tăng khả năng vận động, phòng ngừa gãy xương mới.

Các yếu tố nào gây nguy cơ gãy xương?

Ở nhiều gia đình người ta thấy có yếu tố di truyền về loãng xương và gãy xương. Phụ nữ sau tuổi mãn kinh, hay mãn kinh sớm trước 45 tuổi. Chế độ ăn nghèo canxi và vitamin D. Nam giới hút thuốc lá và uống quá nhiều rượu. Những người có cơ thể bé nhỏ, những người ít hoạt động thể lực và có yếu tố nguy cơ ngã cao.

Ðiều trị loãng xương cần chú ý điều gì?

Điều trị loãng xương có sự khác biệt giữa nữ so với nam và ở các lứa tuổi khác nhau. Lứa tuổi 50 - 60; tuổi 60 - 80 và trên 80 tuổi. Điều trị loãng xương không gãy xương và loãng xương có gãy xương. Để cho hệ vận động được tốt, các hoạt động thể lực thường xuyên rất cần thiết như đi cầu thang bộ, vì tổ chức xương là một mô sống luôn luôn được đổi mới. Cung cấp đủ vitamin D, ngoài chế độ dinh dưỡng và phơi nắng khoảng 30 phút mỗi ngày trước 9 giờ sáng, kiểm tra lượng vitamin D của bản thân có đủ hằng số sinh lý. Thiếu vitamin D có thể gây nên nhiều bệnh đi kèm không chỉ bị loãng xương, nhuyễn xương, mà còn giảm khối lượng cơ nên nguy cơ té ngã cao.

Việc cung cấp đủ canxi và protein là rất bổ ích cho người mắc chứng loãng xương. Thầy thuốc chọn lựa thuốc điều trị loãng xương tùy thuộc các đặc điểm riêng của từng người bệnh. Khi điều trị, người bệnh cần tuân thủ chỉ định điều trị của bác sĩ như: uống thuốc hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, hàng năm. Thầy thuốc và người bệnh nên có sự liên hệ để theo dõi đáp ứng của thuốc và tác dụng không mong muốn do thuốc gây ra. Thuốc uống hàng tuần ví dụ fosamax mỗi tuần uống 1 viên và kéo dài trong nhiều năm từ 4 - 5 năm. Thuốc truyền tĩnh mạch ví dụ aclasta mỗi năm truyền tĩnh mạch 1 lần (truyền thuốc ở bệnh viện) và điều trị liên tục trong 3 năm. Các thuốc nhóm này ở ngày đầu uống thuốc hay truyền thuốc có thể gây sốt, đau cơ, hội chứng giả cúm, đau đầu gặp và đau khớp làm cho bệnh nhân thấy khó chịu. Để giảm bớt các triệu chứng trên bệnh nhân cần uống đủ nước, uống đủ canxi và vitamin D khi điều trị.

Ở người già ngoài 80 tuổi, việc luyện tập cần chú ý đề phòng té ngã vì nguy cơ gãy xương rất cao ở người cao tuổi. Để tránh giảm khối lượng cơ và mật độ xương, ngoài việc đi bộ chú ý cung cấp đủ thực phẩm giàu protein, đủ canxi, vitamin D. Điều trị loại thuốc ức chế hủy xương như biphosphonat (fosamax hoặc aclasta). Ở người già không sử dụng loại raloxifene vì không phòng được gãy cổ xương đùi và thuốc này làm tăng nguy cơ huyết khối. Ở Việt Nam hiện tại chưa có denosumab (prolia), thuốc tiêm dưới da cách 6 tháng tiêm một lần. Điều trị loãng xương cho người già ngoài 80 tuổi không những sử dụng các thuốc làm giảm nguy cơ gãy xương cột sống, gãy cổ xương đùi và gãy cổ tay, mà cần chú ý dự phòng nguy cơ té ngã.

Liên quan đến việc đo loãng xương, hiện nay có hiện tượng ai cũng sợ mình bị loãng xương và ồ ạt đi đo độ loãng xương. Tuy nhiên chúng ta cần phải nhận thức được rằng bất kỳ phương pháp chẩn đoán nào cũng có hạn chế của nó và có thể còn mang lại sự tốn kém về thời gian, tiền bạc và mua thêm sự lo lắng. Loãng xương là tình trạng bệnh lý của hệ thống xương được đặc trưng bởi sự giảm khối lượng xương (tức là giảm mật độ chất khoáng của xương, chủ yếu là canxi), kết hợp với sự hư biến vi cấu trúc của tổ chức xương, làm cho xương trở nên giòn và có nguy cơ gãy xương. Về lý thuyết, để chẩn đoán được loãng xương phải đánh giá được đồng thời cả hai yếu tố: mật độ khoáng hóa của xương vi cấu trúc xương.

Có nhiều phương pháp để chẩn đoán loãng xương. Đầu tiên là các phương pháp đánh giá cấu trúc của xương trực tiếp (qua sinh thiết xương), hay gián tiếp (dùng phương pháp cộng hưởng từ hạt nhân để đánh giá cấu trúc xương trong không gian ba chiều). Sinh thiết xương để chẩn đoán loãng xương gây đau đớn, chỉ thực hiện được ở xương cánh chậu, nên không thể phổ cập được. Phương pháp cộng hưởng từ hạt nhân rất đắt tiền nên chưa thể có ứng dụng trong lâm sàng, mà chỉ mới dừng lại trong các nghiên cứu khoa học.

Chẩn đoán lâm sàng thường muộn do loãng xương tiến triển một cách thầm lặng, không có triệu chứng và chỉ thể hiện ra ở giai đoạn muộn, khi đã có biến chứng. Đó là đau cột sống do lún xẹp đốt sống, kèm theo giảm chiều cao, gù hay gãy các xương đùi, cổ tay, xương chậu, xương sườn. Các biến chứng này đòi hỏi chạy chữa lâu dài, tốn kém, với tỷ lệ tử vong cao.


Phương pháp chẩn đoán bằng chụpx-quang cũng chỉ cho phép chẩn đoán khi mật độ xương đã bị mất từ 30-50%. Do vậy, x-quang không được chỉ định để chẩn đoán xác định loãng xương. Các xét nghiệm sinh hóa để đánh giá chu chuyển xương (quá trình tạo xương và hủy xương) rất tốn kém và lại không cho phép đánh giá được mật độ xương cũng như không tiên lượng được nguy cơ gãy xương. Chính vì vậy, người ta không khuyên sử dụng các chất đánh dấu chu chuyển xương để chẩn đoán và theo dõi điều trị.

Hiện nay Tổ chức Y tế thế giới quy định dùng phương pháp đo mật độ khoáng hóa của xương để chẩn đoán loãng xương. Đo mật độ xương còn cho phép chẩn đoán loãng xương ở giai đoạn sớm, khi chưa có những biến chứng nặng nề như gãy xương. Do vậy đo mật độ xương được coi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán loãng xương. Một số tác giả cho rằng phụ nữ không dùng hormon thay thế trong 5 năm đầu sau mãn kinh cũng bị nguy cơ loãng xương cao hơn người khác. Không cần phải đo mật độ xương ở tất cả phụ nữ sau mãn kinh. Chỉ cần đo mật độ xương ở những phụ nữ mãn kinh sớm trước 40 tuổi hay những phụ nữ mãn kinh bình thường nhưng có tiền sử bệnh lý có thể gây loãng xương thứ phát (suy sinh dục kéo dài, cường giáp tiến triển không được điều trị, cường vỏ thượng thận và cường giáp tiên phát). Tiếp theo là cần đo mật độ xương ở những người có biểu hiện lâm sàng nghi ngờ lún xẹp đốt sống, giảm chiều cao, gù, hay bị gãy xương tay, chân, xảy ra không do chấn thương nặng nề nào.

Nếu như không có chỉ định điều trị sau khi đo mật độ xương, chỉ nên lặp lại đo mật độ xương sau 2-3 năm, thận chí 4 năm. Để phát hiện thay đổi mật độ xương 2-3% cần phải 1-1,5 năm nếu như sai số đó là 1%, và 5 năm nếu sai số của máy là 5%. Khi đo lại, cần đo ở cùng một máy trên cùng một vị trí. Trong trường hợp điều trị, có thể đo lặp lại mật độ xương ở cột sống thắt lưng vì tác dụng của thuốc ở vị trí này khá rõ rệt.

Ngoài đo mật độ xường còn phải chú ý đến yếu tố nào nữa?

Còn có nhiều yếu tố khác gây ngã xương chứ không chỉ là mật độ xương. Đó là các yếu tố nguy cơ gây gãy, rất dễ dẫn đến gãy xương đùi như: thị lực yếu, giảm vận động do bất động, môi trường không thích hợp (tất cả những đồ gây ngã ở nhà), giảm cơ lực (khó khăn leo cầu thang, giảm sức duỗi gối, hay lực cơ tứ đầu đùi), điều trị thuốc an thần hay ảnh hưởng đến khả năng giữ cân bằng. Kiểu ngã, chiều cao, chiều dài xương đùi cũng là yếu tố nguy cơ không phụ thuộc vào mật độ xương. Tóm lại, chỉ nên đo mật độ xương ở những người có nguy cơ cao bị loãng xương hay nghi người bị loãng xương. Chỉ khi đó đo mật độ xương mới phát huy hết tác dụng của nó.

Huỳnh Huy D. 43 tuổi, Hội An, Quảng Nam, hntourisme@....

Hỏi: Xin bác sĩ cho biết tôi đang bị bệnh viêm da dầu và thường xuyên tái đi tái lại vì dùng thuốc thì hết, khi hết dùng thì lại đâu vào đó. Vậy, làm cách nào cho tôi chọn thuốc điều trị viêm da dầu hiệu quả, xin nhận được sự phản hồi sớm, xin chân thành cảm ơn!

Trả lời:
 

Liên quan đến câu hỏi đặt ra vấn đề của bạn, chúng tôi xin chia sẻ với bạn dưới góc độ và thông tin chuyên khoa từ các chuyên gia da liễu tại việt Nam. Viêm da dầu là bệnh hay gặp vào mùa hè, mùa đông. Bệnh viêm da dầu mặc dù là bệnh da lành tính nhưng gây phiền phức cho người bệnh vì màu da thương tổn đỏ,vảy da bong liên tục ảnh hưởng đến thẩm mỹ và chất lượng cuộc sống, nhưng nếu điều trị đúng và duy trì điều trị có thể khỏi bệnh hoặc làm giảm các triệu chứng phiền phức của bệnh gây nên.

Viêm da dầu có thể xảy ra trên vùng mặt, có thể diễn ra trên một số vùng thân mình hoặc chỉ khu trú thân mình. Viêm da dầu là một dạng viêm da mạn tính không rõ căn nguyên, đặc trưng bởi tình trạng bong vảy ở mặt và da đầu. Bệnh diễn biến dai dẳng, điều trị khó khăn, hay tái phát làm người bệnh đôi khi thất vọng, chán nản. Một số nghiên cứu cho biết, tỷ lệ mắc bệnh khoảng 2-5%. Những người bị bệnh thường hay có cơ địa tiết bã nhờn, một số người sau đó phát triển bệnh vẩy nến. Những bệnh nhân Parkinson, liệt mặt, người nhiễm HIV, sử dụng một số thuốc thần kinh, suy dinh dưỡng, thiếu kẽm, sang chấn tâm lý... có nguy cơ cao bị viêm da dầu.

Viêm da dầu thường xảy ra ở trẻ nhỏ dưới 3 tháng tuổi hoặc ở người lớn trên 30 tuổi, bệnh thường gặp hơn ở nam giới so với nữ giới, có tính gia đình và nặng lên vào mùa lạnh. Bệnh xuất hiện ở các vùng da có nhiều tuyến bã hoạt động mạnh là mặt, đầu, ngực, lưng và các nếp gấp lớn. Viêm da dầu thường xuất hiện từ từ, gây ra vảy gàu khô và dính ở da đầu, đôi khi gây ngứa và không làm rụng tóc. Trong những trường hợp nặng, vảy da có thể xuất hiện ở sau tai, trong ống tai, cung lông mày, sống mũi, quanh mũi, ngực hoặc vai. Trẻ mới sinh có thể mắc bệnh lan tỏa, triệu chứng toàn thân rất nặng, có tiêu chảy, da toàn thân đỏ và có thể đe dọa tính mạng trẻ.

Một điểm cần lưu ý là bệnh viêm da dầu dễ phát hiện, nhưng một số trường hợp có thể nhầm với bệnh vảy nến hoặc là khởi đầu của vảy nến. Bệnh cũng có thể nhầm với nấm nông da, nấm Candida spp. kẽ, lupus ban đỏ bán cấp và một số bệnh da khác. Một điều đáng quan tâm là người bệnh thấy da bị đỏ, bong vảy da nhiều và chữa lâu khỏi nên cứ cho rằng mắc nấm nông ngoài da, họ cứ đi chữa chạy khắp mọi nơi, hậu quả là bôi quá nhiều loại thuốc và bệnh trở nên khó chữa.

Điều trị viêm da dầu
 

Cho đến  nay đã có nhiều phương pháp điều trị bệnh viêm da dầu như bôi mỡ coticoides, thuốc kháng nấm tại chỗ, uống và bôi vitamin A acid, zinci - pyrithyon nhằm kiểm soát các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh. Các thuốc có corticoides được sử dụng nhiều và có hiệu quả trong điều trị, hiện nay có nhiều kem bôi corticoides phối hợp với thuốc chống nấm như Clotrimazol và kháng sinh dùng rất tốt cho bệnh viêm da dầu.

Với viêm da dầu trên đầu: dùng các loại dầu gội chống nấm như selenium sulfide, zinc pyrithione, ketoconazol 2% gội 2 - 3 lần/tuần, có thể dùng duy trì lâu dài. Trường hợp nặng có thể bôi dung dịch lotion hoặc gel corticoid nhẹ trong 1 - 2 tuần. Trường hợp có vảy dày cần được điều trị bằng các loại kem có chứa corticosteroid hoặc salicylic acid. Việc điều trị thường phải kéo dài nhiều tuần, nếu sau khi ngừng điều trị mà bệnh tái phát thì việc điều trị có thể bắt đầu lại từ đầu.

Với mặt và thân mình: dùng thuốc bôi corticoides dạng kem hay lotion bôi trong 1 - 2 tuần, sau đó bôi kem pimecrolimus 1%. Các kem dưỡng ẩm cần bôi nhiều lần trong ngày và bôi duy trì, đặc biệt vào mùa thu đông. Glucocorticoides bôi tại chỗ thường được sử dụng 2 lần mỗi ngày trong giai đoạn cấp. Sau khi bệnh đã được kiểm soát, có thể bôi cách ngày hoặc hai lần mỗi tuần tại nơi tổn thương để ngăn ngừa bệnh tái phát.

Tác dụng phụ của glucocorticoides bôi tại chỗ tùy thuộc vào cường độ tác dụng và thời gian sử dụng thuốc, thường gặp nhất là rạn da, nổi mụn trứng cá, giãn mạch, teo da. Lưu ý khi dùng kem chứa corticoides cho tổn thương ở da mặt hoặc cho trẻ em, nên ưu tiên sử dụng những loại có tác dụng nhẹ như hydrocortison, dexamethason. Những loại glucocorticoides có tác dụng mạnh chỉ nên dùng trong thời gian ngắn và tại những vùng dày sừng, không được dùng ở mặt và da mỏng.

Ngoài ra, có thể dùng thuốc glucocorticoides đường uống hoặc tiêm. Với loại thuốc này, dù cải thiện tốt các triệu chứng lâm sàng nhưng ít khi được sử dụng do bệnh thường tái phát mạnh hơn sau khi ngưng thuốc. Trường hợp nặng, không đáp ứng với điều trị tại chỗ, có thể dùng một đợt glucocorticoid đường uống ngắn ngày nhưng phải lưu ý giảm dần liều trước khi ngừng thuốc.

Thuốc điều trị toàn thân: có thể dùng Itraconazole uống trong 2 tuần. Cần xem xét về thể trạng của người bệnh, dinh dưỡng và bổ sung các vitamin B3, vitamin B6, vitamin H, viên kẽm;

Điều trị duy trì: rất cần thiết để tránh tái phát và hạn chế bệnh nặng lên. Bôi kem dưỡng ẩm, kem bôi ketoconazol 2% và shampoo dùng duy trì. Có thể bôi mỡ bong vảy da salicylic 2%. Khi bệnh nặng lên có thể bôi kem hydrocortison 1-2,5% trong 1 tuần. Mỡ bôi pimecrolimus 1% hoặc tacrolimus 0,03% vừa có hiệu quả vừa an toàn và dùng lâu dài.

Chiếu tia cực tím tại chỗ: được sử dụng trong những trường hợp nặng và không đáp ứng với các điều trị bằng thuốc. Tác dụng phụ hay gặp là nổi ban đỏ, rát và ngứa da, rối loạn sắc tố. Tuy nhiên, người bệnh cũng nên đi khám bác sĩ để có chẩn đoán chính xác và được chỉ định điều trị cụ thể, không tự ý chữa hoặc dùng các loại thuốc, nhất là các thuốc dân gian không rõ nguồn gốc, bệnh sẽ nặng lên, điều trị sẽ càng khó khăn.

Thúy Hương 36 tuổi, cán bộ tư pháp huyện Phú Thiện, Tỉnh Gia Lai, lanhuong16@

Hỏi: Xin hỏi bác sĩ phụ trách về trang website của Viện sốt rét ký sinh trùng Quy Nhơn, vừa qua gia đình chúng tôi có đưa mẹ tôi đến khám bệnh tại phòng khám bệnh 27 Lý Thái Tổ, TP. Quy Nhơn của Viện các anh chị, khi vào gặp bác sĩ phòng khám xem xong hồ sơ (các xét nghiệm và thăm khám tại bệnh viện Hoàng Anh Gia Lai và tại BVĐK tỉnh Gia Lai), bác sĩ khuyên nên chuyển sang khoa ung bướu bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định vì về mặt chuyên khoa, chúng tôi không đáp ứng được các bệnh lý này, hơn nữa các chẩn đoán tuyến trước cho thấy rõ ràng khối ác tính và trên cơ địa yếu cần chăm sóc đặc biệt, thậm chí cấp cứu, chúng tôi có xin làm xét nghiệm tổng quát về giun sán, nhưng bác sĩ từ chối vì trong thời gian chờ đợi xét nghiệm có thể trễ và có thể khi qua bệnh viện tỉnh sẽ bị làm lại thì khí đó rất mất thời gian và tiền bệnh nhân một lần nữa là kjhoong nên. Gia đình chúng tôi hy vọng ở Viện sốt rét khám và chữa được ung thư phổi cho mẹ tôi, song bác sĩ ở đây từ chối như vậy có đúng không? Xin ý kiến bác sĩ cho một lời khuyên!

Trả lời:

Chúng tôi rất trân trọng ý kiến phản hồi của bạn đọc và thân nhân, người nhà bệnh nhân về trường hợp này, hơn nữa quý anh chị đã rất tin tưởng cơ sở khám chữa bệnh này là niềm vinh dự và nâng cao trách nhiệm của chúng tôi. Qua trường hợp này, chúng tôi nhận thấy các bên đều đúng: bác sĩ cũng đúng và bên gia đình chị có ý kiến cũng đúng. Vì chúng tôi là đơn vị thực hiện khám chữa bệnh chuyên về sốt rét, ký sinh trùng, côn trùng truyền bệnh và một số bệnh lý nội khoa thông thường, còn các bệnh lý thuộc về chuyên khoa khác như tim mạch, tai mũ họng, mắt, sản khoa và đặc biệt ung thư lại càng không vì chúng tôi luôn tôn trọng ý kiến của chuyên khoa riêng biệt vì đó là quyền lợi và tính mạng của bệnh nhân không thể “ôm” tất cả bệnh nhân để rồi gây hậu quả không tốt.
  

Trong trường hợp này, bệnh nhân là mẹ của bạn đang mắc ung thư phổi đã di căn và tràn dịch đa màng, có thể đe dọa tính mạng và cần phải cấp cứu trong khu hồi chức chăm sóc đặc biệt tại khoa ung thư hoặc khoa ICU, nên các bác sĩ ở đây đưa ra lời khuyên và từ chối cho xét nghiệm cho mẹ bạn là phù hợp vì tiết kiệm thời gian và tiền bạc cho gia đình bạn đó chứ, hy vọng bạn hiểu cho chúng tôi. Nhân câu chuyện này, chúng tôi xin trích một chuyện bên lề liên quan đến vấn đề tượng tự xảy ra gần đây được giới chuyên môn đánh giá rôi, xin chia sẻ với bạn:

Các ý kiến về vụ việc bác sĩ từ chối mổ dịch vụ cho một bệnh nhân. Báo Sức khỏe và Đời sống số 48 ngày 25/3 có bài viết “Thực hư vụ việc bác sĩ từ chối mổ dịch vụ cho một bệnh nhân”. ngay sau đó báo Sức khỏe và Đời sống đã nhận được nhiều ý kiến phản hồi xung quanh vụ việc. Để giúp bạn đọc thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến.

Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến: “Đừng để bệnh nhân hiểu lầm người thầy thuốc”

Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến, sự ứng xử của bác sĩ với bệnh nhân là vô cùng quan trọng. Trong trường hợp không phải cấp cứu nhưng bác sĩ không thể mổ được vì lý do công việc, bác sĩ nên giải thích và người bệnh nên thông cảm. Sự cảm thông giữa hai phía thầy thuốc và bệnh nhân là vô cùng quan trọng để phục vụ lợi ích vì sức khỏe trước tiên của bệnh nhân, sau là mới tới thầy thuốc.

TS. Nguyễn Huy Quang, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Y tế: “Việc từ chối bệnh nhân trên là hoàn toàn đúng chuyên môn và phù hợp quy định”

Trao đổi với phóng viên về vụ việc này, ông Nguyễn Huy Quang - Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Y tế cho biết: “Thứ nhất phải căn cứ vào Luật khám, chữa bệnh. Theo luật, người bệnh được quyền khám, chữa bệnh theo yêu cầu và điều kiện thực tế. Người bệnh được giải thích, tư vấn rõ ràng về hiện trạng bệnh và rủi ro có thể xảy ra khi điều trị. Quyền của người bệnh gắn với nghĩa vụ của người khám, chữa bệnh. Người thầy thuốc cần sơ, cấp cứu kịp thời và đối xử bình đẳng với mọi người bệnh. Nghiêm cấm từ chối hoặc chậm cấp cứu người bệnh. Với trường hợp cụ thể này, đây không phải là trường hợp cấp cứu nên bác sĩ từ chối để phục vụ người bệnh cấp cứu là phù hợp quy định. Về mặt đạo đức, người thầy thuốc ưu tiên các ca bệnh khẩn, cấp cứu, không phân biệt là ai. BS.Quyết làm quản lý và kiêm thêm công tác chuyên môn, bác sĩ hoàn toàn có thể cân nhắc tùy theo chẩn đoán bệnh để đảm bảo an toàn cho các ca cả mẹ và bé. Trường hợp bệnh nhân nêu trên không phải ca cấp cứu, chỉ được chọn BS phù hợp với hiện trạng bệnh. Hơn nữa, các BS khác không kém gì về chuyên môn, y đức nên hoàn toàn phù hợp. Giả sử có một trường hợp người bệnh cấp cứu mà BS. Quyết từ chối để mổ dịch vụ cho người khác, sau đó ca cấp cứu xảy ra biến cố thì lúc đó chính BS. Quyết đã vi phạm chuyên môn và y đức. Vì vậy, việc từ chối bệnh nhân trên là hoàn toàn đúng chuyên môn và phù hợp quy định”.
 

LS Hoàng Mạnh Hùng - Phó trưởng Văn phòng Luật sư Việt Thành, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội: “Bác sĩ đã hoàn thành trách nhiệm đưa lời khuyên và tư vấn chuyên môn cho bệnh nhân khá đầy đủ”

Luật Khám bệnh, chữa bệnh số 40/2009/QH12 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, Kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 23/11/2009 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2011 quy định về vấn đề này như sau: BS có quyền từ chối khám chữa bệnh cho bệnh nhân như: được từ chối khám bệnh, chữa bệnh nếu trong quá trình khám bệnh, chữa bệnh mà tiên lượng bệnh vượt quá khả năng hoặc trái với phạm vi hoạt động chuyên môn của mình nhưng phải báo cáo với người có thẩm quyền hoặc giới thiệu người bệnh đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác để giải quyết. Trong trường hợp này, người hành nghề vẫn phải thực hiện việc sơ cứu, cấp cứu, theo dõi, chăm sóc, điều trị người bệnh cho đến khi người bệnh được chuyển đi cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác; Được từ chối khám bệnh, chữa bệnh nếu việc khám bệnh, chữa bệnh đó trái với quy định của pháp luật hoặc đạo đức nghề nghiệp.

Sự việc diễn ra như báo SK & ĐS nêu, BS. Quyết có quyền từ chối phẫu thuật cho bệnh nhân Trang. BS. Quyết đã thực hiện trách nhiệm khám cho bệnh nhân Trang. Trước khi từ chối mổ cho bệnh nhân Trang để chuyển sang thăm khám cho những bệnh nhân khác đang chờ đợi, BS. Quyết cũng đã hoàn thành trách nhiệm đưa lời khuyên và tư vấn chuyên môn cho bệnh nhân Trang khá đầy đủ. Giả sử BS. Quyết có thành kiến với nhà báo - bệnh nhân Trang - thì theo tôi, BS. Quyết đã từ chối khám ngay từ khi đọc hồ sơ bệnh nhân để tập trung thăm khám cho các bệnh nhân khác đang xếp hàng chờ đợi.
 

Phó Trưởng Ban Tuyên giáo TW Nguyễn Thế Kỷ: “Người phóng viên phải đưa đến cho bạn đọc những thông tin chính xác, khách quan nhất”

Nếu cô phóng viên đến bệnh viện với mục đích được chữa trị hoặc muốn được bác sĩ chăm sóc sức khỏe thì không cần giới thiệu mình là ai. Bởi khi đến viện, người bệnh chỉ có nhu cầu chữa khỏi bệnh.Ngay cả với những người nghèo khó nhất, có địa vị xã hội thấp nhất cũng không cần phải nói điều đó, còn đối với người có thân phận và địa vị xã hội càng cao thì càng không nên nói ra để cho người khác biết. Không nên tự cho mình có quyền nọ, quyền kia nhân danh một vị thế xã hội để phục vụ cho mục đích cá nhân. Hiện nay, có 1 số phóng viên trẻ do kiến thức và trải nghiệm chưa nhiều nên đôi khi xử lý công việc còn cảm tính, mà điều này là không nên.

Nhà báo Nguyễn Thùy Linh, PV báo VTC News:Vội vã viết một bài báo phê phán - đó là vùi dập người có tâm với nghề”

Nhiều nhà báo, trong đó có tôi thỉnh thoảng vẫn dùng cái thẻ nhà báo của mình để giải quyết một số việc... Nhưng tôi biết cái thẻ đó không phải là “bùa hộ mệnh” trong bất cứ trường hợp nào, đặc biệt khi mình đi khám chữa bệnh thì không bao giờ dùng nghiệp vụ vì mình là người có bệnh đang cần cứu chữa… Khi gặp bác sĩ, gặp công an, trước hết tôi vẫn coi mình là một công dân. Nếu sai, tôi sẽ xin lỗi rồi dùng lời lẽ nhũn nhặn để thuyết phục họ một cách có lý có tình nhất mà tôi có thể. Tôi đã từng làm việc với BS. Vũ Bá Quyết - Giám đốc BV Phụ sản TW. Bằng cảm nhận từ cái đầu và trái tim, tôi không bao giờ nghĩ BS. Quyết “phũ phàng” đến vậy. Có thể BS - người từng bị “gài bẫy” và bị đưa lên báo nên bác ấy có phản ứng và buột miệng nói gì đó khiến ai đó thấy không chấp nhận được. Ai cũng có lúc như vậy, nhưng không đủ để viết một bài báo phê phán một con người có thể khiến người ấy bị cả xã hội nhìn nhận sai lệch. Điều đó là vùi dập một con người có tài và cũng có tâm với nghề, với bệnh nhân. Tôi thấy đau lòng!!! Các bạn có quá vội vàng không???

BS. Nguyễn Trung Cấp - Trưởng khoa Cấp cứu, BV Bệnh nhiệt đới TW:Bác sĩ quyết định vì chính lợi ích của người bệnh”

BS. Quyết từ chối mổ trong trường hợp này là đúng, bởi BS phải chịu áp lực quá tải công việc. Sự không tỉnh táo và kiệt sức của thầy thuốc có thể gây nguy hại cho BN và cho chính bản thân BS. Chính vì thế, những công việc đòi hỏi độ chính xác cao như phẫu thuật, thủ thuật không được cố khi đã mệt mỏi sẽ ảnh hưởng tới tính mạng bệnh nhân. Nếu một phẫu thuật viên trong tâm lý bị ức chế thì không nên đứng mổ vì ca mổ sẽ không tốt cho bệnh nhân, trừ trường hợp không có ai thay thế hoặc phải xử trí cấp cứu ngay. Trong khi đó, BV Phụ sản Trung ương là một BV đầu ngành của sản khoa, có nhiều BS phẫu thuật tay nghề cao thực hiện được nên tốt nhất là giới thiệu cho BS khác mổ.

Trong y học có những quy định bất thành văn nhưng toàn thế giới vẫn tuân thủ như BS không mổ, trực tiếp điều trị cho người thân (cha, mẹ, vợ con...) vì tâm lý có thể ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Và những đối tượng có mâu thuẫn cũng vậy. Điều đó xuất phát từ ích lợi của BN chứ không phải ích lợi của thầy thuốc.

Nguyễn Xuân Hoàng, Điều dưỡng gây mê Bệnh viện K:Ưu tiên những trường hợp cấp cứu để giành giật sự sống cho họ - đó cũng là y đức”

Tôi đồng tình với BS. Quyết từ chối mổ cho bệnh nhân Trang bởi phải ưu tiên BS có tay nghề cao để cứu những ca bệnh khó trước. Bệnh nhân nên biết và dành cho BS sự tôn trọng, trước hết là giữa con người với con người, sau là đối với người đã chữa bệnh cho mình. Không nên mang đồng tiền ra để làm thước đo giá trị con người và đánh giá y đức. Mỗi ngành nghề đều có đặc thù riêng, phải ở trong nghề thì mới thấu hiểu hết được. Tôi đã từng được chứng kiến bệnh nhân viêm ruột thừa, đau đớn, khả năng vỡ cũng khá cao. Nhưng đã đưa bệnh nhân vào cửa phòng mổ rồi lại phải đưa ra vì lúc đó còn một bệnh nhân khác nặng hơn nhiều, khả năng tử vong cận kề, cần phải được ưu tiên giải quyết trước. Đương nhiên ai cũng cần được cứu chữa nhưng bệnh nhân nào cần cấp cứu để giành giật sự sống thì BS sẽ ưu tiên được làm trước - đó cũng là y đức.

Chúng tôi nghĩ rằng với các thông tin trên từ nhiều đồng nghiệp trong ngành, luật sư, nhà báo,…phần nào đã giúp cho bạn hiểu hưn về những các chiến sĩ áo trắng trên mặt trận khám chữa bệnh như chúng tôi hiện nay. Một lần nữa, kính chúc gia đình chị khỏe và luôn tin tưởng về đội ngũ thầy thuốc Việt Nam hiện nay.

Cáp Quý Ng. 57 tuổi, TP. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, huyenthoai68@

Hỏi: Cho phép tôi hỏi giúp bà cụ nhà tôi vừa mới bị zona cách nay tròn 5 tháng, hiện các vết thương đã lành, nhưng thỉnh thoảng đau giật mình vào các cơ rất đau đớn, đôi khi bà không ngủ được, cứ ngồi than. Tôi đã đưa cụ đi khám và điều tị nhiều nơi trong thành phố Hồ Chí Minh, kể cả Bệnh viện Việt-Pháp nhưng không giảm nhiều. tôi xin hỏi làm thế nào để hạn chế và cắt cơn đau dây thần kinh sau zona, nhất là ở vùng đầu mặt và thắt lưng, hoặc đau hậu zona trên bệnh nhân người lớn tuổi như cụ nhà tôi. Tôi chân thành cảm ơn!

Trả lời:

Chúng tôi rất chân thành cảm ơn câu hỏi của anh chị và chia sẻ cơn đau của bà. Đau dâythần kinh hậu zona hay biến chứng viêm thần kinh (Acute herpes zoster neuritis and Postherpetic Neuralgia). Đây là một biến chứng của bệnh zona do virut thủy đậu gây ra. Hầu hết các trường hợp bệnh zona khỏi trong vòng một vài tuần nếu chăm sóc vệ sinh và thuốc điều trị đúng, nhưng nếu đau kéo dài sau khi khỏi các tổn thương ban và bọng nước được gọi là đau thần kinh hậu zona.
  

Một số yếu tố có thể dễ dẫn đến đau dây thần kinh hậu zona bao gồm người cao tuổi, giới nữ hay bị hơn nam, có biểu hiện đau nhiều trong giai đoạn có tổn thương ban và bọng nước, ban và bọng nước nặng và lan rộng, có các biểu hiện tiền triệu (đau và dị cảm đau vùng dây thần kinh bị ảnh hưởng trước khi xuất hiện ban và bọng nước), cơ thể suy giảm miễn dịch như đang dùng thuốc ức chế miễn dịch, thuốc corticoides, thuốc chống thải ghép ở những người ghép tạng, nhiễm virus HIV/AIDS, bệnh nhân lao, tiểu đường, suy giảm miễn dịch khác. Một số yếu tố về mặt tâm lý cũng có thể thúc đẩy xuất hiện đau dây thần kinh hậu zona, vị trí tổn thương nguy cơ là thấp nếu zona ở vùng cằm, cổ và thắt lưng. Nguy cơ trung bình ở vùng ngực, guy cơ cao nhất ở vùng chi phối của dây thần kinh sinh ba (dây thần kinh sọ não số V), đặc biệt là nhánh mắt (vùng mặt) và đám rối thần kinh cánh tay.

Các biểu hiện của đau dây thần kinh hậu zona thường giới hạn ở những vùng da đầu tiên xảy ra bệnh zona và thường chỉ một bên cơ thể. Có thể gồm có đau và dấu chứng đau vẫn tiếp tục dai dẳng vài tháng hoặc thậm chí hàng năm sau mặc dù tổn thương ban đầu của zona đã giảm hoặc biến hết. Cảm giác đau nóng rát, giần giật, đau nhói trong sâu da thịt. Cảm giác đau xuất hiện khi có các kích thích mà bình thường không gây đau hoặc khó chịu như tiếp xúc nhẹ, kể cả tiếp xúc với quần áo, hơi nóng hoặc hơi lạnh. Ngứa và tê ít gặp hơn và có thể có biểu hiện yếu hoặc liệt cơ. Các biểu hiện có thể ảnh hưởng đến giấc ngủ, ăn uống và thậm chí gây trầm cảm và cách biệt xã hội.
 

Trong thời gian bị nhiễm trùng ban đầu của bệnh thủy đậu, một số virut ở tế bào thần kinh của cơ thể trong trạng thái không hoạt động. Nhiều năm sau, virut có thể bị tái kích hoạt gây ra bệnh zona. Vì cơ thể đã có miễn dịch chống lại virut nên ban và bọng nước chỉ xuất hiện ở vùng da bị chi phối bởi dây thần kinh có virut tái hoạt động.

Đau dây thần kinh hậu zona xảy ra nếu các sợi thần kinh bị tổn thương trong đợt bùng phát của bệnh zona. Sợi thần kinh bị tổn thương không thể gửi tin nhắn từ da đến não bộ theo cách thông thường mà thay vào đó, các thông điệp trở nên rối loạn gây đau dai dẳng hàng tháng, thậm chí cả năm.

Thăm khám vùng bị zona có sẹo, giảm cảm giác hoặc quá mẫn, thậm chí dị cảm. Trong hầu hết trường hợp, đau dây thần kinh hậu zona có thể được chẩn đoán dựa vào lâm sàng mà không cần làm xét nghiệm. Bác sĩ cần giải thích cho người bệnh hiểu được bản chất của bệnh, bao gồm cả tính chất dai dẳng của triệu chứng và mục tiêu của điều trị; Khuyên người bệnh mặc quần áo rộng rãi, chất liệu cotton sẽ giảm được kích thích lên vùng da nhạy cảm.

Hiện nay chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu. Trong nhiều trường hợp, có thể cần phải kết hợp các phương pháp điều trị để giảm đau. Thường kết hợp các thuốc giảm đau tại chỗ (miếng dán có chứa thuốc giảm đau hoặc bôi thuốc giảm đau) và thuốc giảm đau toàn thân, thuốc chống trầm cảm ba vòng, thuốc chống co giật, thuốc giảm đau dạng thuốc phiện... Tuy nhiên, đau hoặc khó chịu đáp ứng kém với các thuốc giảm đau thông thường. Những trường hợp nặng hơn có thể cần dùng phương pháp thủy châm bằng các thuốc tăng cường dinh dưỡng, bổ thần kinh; phương pháp kích thích điện thần kinh qua da; tiêm thuốc phong bế dây thần kinh...Vaccine có thể giúp ngăn ngừa bệnh zona và đau dây thần kinh hậu zona ở người trưởng thành.

Bệnh zona thường đau trước khi phát ban. Nguy cơ phát triển đau dây thần kinh hậu zona giảm một nửa nếu bắt đầu dùng thuốc kháng virut trong vòng 72 giờ từ khi xuất hiện phát ban bệnh zona. Ðau dây thần kinh hậu zona ảnh hưởng đến các dây thần kinh và da. Ðau có thể ảnh hưởng đến giấc ngủ và ăn uống. Nguy cơ đau dây thần kinh hậu zona tăng theo tuổi tác, chủ yếu gặp ở những người trên 60 tuổi (chiếm khoảng 1/3 số người bị bệnh). Vùng da bị đau cũng khác nhau, nhưng zona ở phần trên của cơ thể, đặc biệt là vùng mặt có nguy cơ đau dây thần kinh hậu zona cao hơn rõ rệt các vùng khác. Hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu mà chỉ là điều trị triệu chứng giảm đau và các biện pháp giảm nhẹ. Với hầu hết các trường hợp, đau có thể giảm dần theo thời gian. Biểu hiện đau thường giới hạn ở vùng da bị bệnh lúc đầu, chủ yếu là vùng chi phối của trục thần kinh và chỉ ở một bên của cơ thể.

Nguyễn Trung Thắng, 52 tuổi, Cam Lâm, Cam Ranh, Khánh Hòa, 0914….

Hỏi: Cả cơ quan tôi gần đây khi khám sức khỏe định kỳ mỗi năm có nhiều người trong cơ quan hoặc cùng gia đình biểu hiện đau đầu, đau vai gáy rất khó chịu và khi chụp x quang có một số trường hợp chẩn đoán thoái hóa cột sống thắt lưng, thoái hóa cột sống cổ, gai cột sống cổ, gai cột sống thắt lưng,…có cảm giác tế các cánh tay và vùng chân, đi lại và đau nhức suốt đêm.Tuy nhiên, các bác sĩ chỉ khuyên điều trị bằng vật lý liệu tập thể dục, lắc cổ, thắt lưng và lắc vòng, đi bộ nhẹ. Tôi xin hỏi khi có gai cột sống có cần mổ cắt gai đi không để tránh uống thuốc kéo dài vì một số người có bị bệnh lý dạ dày không thể dùng thuốc chống viêm của bác sĩ cho được. Chân thành cảm ơn nếu các bác trả lời sớm!

Trả lời:

Gai cột sống là sự phát triển thêm ra của xương trên thân đốt sống, đĩa sụn, dây chằng quanh khớp do viêm khớp cột sống mạn tính, chấn thương hay sự lắng đọng canxi ở các dây chằng, gân tiếp xúc với đốt sống. Vị trí thường mọc gai là mặt trước và bên của cột sống, hiếm khi mọc ở phía sau nên ít chèn ép vào tủy và rễ thần kinh. Gai cột sống khiến người bệnh rất khó chịu, nhất là cảm giác đau ở vùng thắt lưng, đau vai hoặc cổ do gai tiếp xúc với dây thần kinh, các xương đốt sống khi cử động, đau lan xuống cánh tay, tê chân tay, đôi khi làm giới hạn vận động.
 

Người bệnh bị gai cột sống thường được điều trị bảo tồn bằng các thuốc giảm đau kháng viêm không steroid, thuốc giãn cơ hay sử dụng một số dụng cụ nâng đỡ như nẹp cổ… nhằm giảm bớt gánh nặng lên các đốt sống bị bệnh. Phẫu thuật chỉ đặt ra trong trường hợp có sự chèn ép vào tủy, làm hẹp ống tủy hoặc chèn ép hệ thần kinh và gây các dấu hiệu tê chân, tay, rối loạn đại tiểu tiện. Tuy nhiên, ngay cả khi phẫu thuật gai xương vẫn có thể mọc lại ở cùng vị trí cũ vì thực tế quá trình hình thành gai xương là một đáp ứng tự nhiên của cơ thể đối với phản ứng viêm. Trường hợp của anh nên điều trị theo phác đồ của bác sĩ và tái khám định kỳ để phát hiện sớm các tiến triển xấu từ đó có biện pháp xử trí thích hợp.

Gai trên các đột sống của cột sống là sự phát triển thêm ra của xương trên thân đốt sống, đĩa sụn hay dây chằng quanh khớp. Gai cột sống thường gặp ở một số vị trí như đoạn cột sống cổ và cột sống thắt lưng. Khi bị gai cột sống, người bệnh thường có cảm giác đau do khi cử động, gai tiếp xúc với dây thần kinh hoặc các đốt xương sống. Ngoài ra, đau còn làm hạn chế vận động cổ, vai, thắt lưng.

Khi bị gai cột sống, người bệnh thường có tâm lý chỉ muốn cắt bỏ ngay cái gai này để hết cảm giác đau, khó chịu nhưng đa phần các trường hợp gai cột sống đều được điều trị nghiêng về bảo tồn bằng việc sử dụng thuốc giảm đau kháng viêm không steroid, nhóm thuốc giãn cơ; giảm bớt gánh nặng lên các đốt sống bị bệnh bằng cách dùng một số dụng cụ nâng đỡ như nẹp cổ hoặc áo giáp... Châm cứu, vật lý trị liệu giúp giảm đau và tăng vận động ở một số khớp bị ảnh hưởng có thể được áp dụng để hỗ trợ điều trị. Người bệnh cũng nên tập thể dục đều đặn nhưng cần tránh những môn thể thao bắt cột sống phải chịu trọng lượng lớn như nhảy cao, đẩy tạ...
 

Phẫu thuật được đặt ra khi gai chèn ép vào tủy, làm hẹp ống tủy hoặc các rễ thần kinh ở cột sống. Việc điều trị cần phải do các bác sĩ chuyên khoa xương khớp và cột sống thần kinh khám và điều trị cụ thể.

Thân chúc anh chị trong cơ quan anh chị khỏe nhé!

Huỳnh Huy D, 37 tuổi, Bình Sơn, Quảng Ngãi, 0912….

Hỏi: Xin các bác sĩ cho con hỏi, ba con bị bệnh Parkinson đã rất lâu, gần 20 năm nay và có dùng thuốc đều đặn. Tuy nhiên, gần đây, ông ăn uống khó và chậm chạm yếu hẳn, khi dùng thuốc phải dùng liều cao hơn và nhiều hơn thì mới chăm sóc tốt được. Cháu xin hỏi làm thế nào chăm sóc bệnh nhân Parkinson toàn diện được, mong các bác sĩ chỉ dẫn giúp cho cháu, cháu cảm ơn!

Trả lời:

Parkinson là một bệnh thoái hóa mạn tính một số tổ chức ở não (thể vân, liềm đen), là nguyên nhân gây tàn phế ở người lớn tuổi - đứng hàng thứ hai sau các bệnh lý mạch não. Bệnh tiến triển nặng dần và phải điều trị suốt đời, gây tốn kém cho gia đình và xã hội. Bệnh diễn biến từ từ với triệu chứng nhanh mệt mỏi, máy cơ, đau mỏi cơ (đây là những triệu chứng không đặc trưng của bệnh). Có 3 triệu chứng chính trên bệnh nhân bị Parkinson gồm có run, cứng cơ (tăng trương lực cơ), giảm động tác.

-Run: run khi nghỉ ngơi, run nhỏ, khoảng 4 - 8 lần trong một giây. Run mất khi ngủ và vận động chủ ý nhưng run tăng khi xúc động, mệt mỏi và khi cố gắng tập trung trí óc; run thường bắt đầu ở một bên và chủ yếu ở đầu ngón tay (cử động giống như đếm tiền hoặc vê thuốc lào), cũng có thể run ở chân.

-Tăng trương lực cơ (cứng đờ): Lúc đầu cứng ở một bên của cơ thể, sau lan sang bên đối diện và cuối cùng là toàn thân dẫn đến các động tác bị ngừng lại hoặc ngập ngừng khi khởi động.

-Giảm động tác: người bệnh ít chớp mắt; giảm điệu bộ với nét mặt không diễn cảm; giảm vung tay khi đi; khó khăn thực hiện được các động tác xen kẽ nhanh như sấp ngửa bàn tay…Những rối loạn vận động biểu hiện: khi đi, bước từng bước nhỏ với giậm chân lúc khởi động; chữ viết nhỏ; nói khó đơn điệu…

-Các triệu chứng khác: hồi hộp trống ngực, vã mồ hôi, rối loạn giấc ngủ, táo bón, đau mỏi các khớp, đau lưng, bất lực ở nam giới, rối loạn cơ tròn bàng quang, trầm cảm (buồn bã, chán nản)… đến giai đoạn cuối bệnh nhân có thể có khó thở và khó nuốt, thể trạng suy kiệt.

Mục đích điều trị là làm giảm các triệu chứng của bệnh như run, cứng, giảm động tác chứ không phải điều trị làm hết hẳn các triệu chứng để hạn chế tối đa tác dụng phụ của thuốc. Nâng cao thể trạng. Bệnh cần được điều trị suốt đời, gồm liệu pháp dùng thuốc và không dùng thuốc.
 

Liệu pháp không dùng thuốc, bên cạnh việc dùng thuốc, hồi phục chức năng có một vai trò quan trọng giúp cho người bệnh nâng cao chất lượng cuộc sống, bao gồm tập phục hồi chức năng vận động, ngôn ngữ, tập thể dục, đi bộ...

Ngày nay, với sự phát triển của y học, ở các nước tiên tiến, người ta có thể áp dụng phương pháp điều trị phẫu thuật (kích thích hoặc phá hủy một số tổ chức ở não hoặc cấy ghép tế bào gốc) trong những trường hợp bệnh giai đoạn cuối, không đáp ứng với thuốc điều trị.

Chăm sóc bệnh nhân Parkinson như thế nào?

Bệnh nhân cần được ăn đủ chất, thức ăn dễ tiêu, nhiều hoa quả, rau xanh, uống nhiều nước tránh táo bón. Vệ sinh thân thể, răng miệng và chế độ tập luyện và vận động hằng ngày. Các hoạt động thường xuyên sẽ làm hệ cơ mạnh và dẻo dai hơn. Đi bộ là một trong những phương pháp tập luyện tốt nhất và cùng với việc dùng thuốc nó giúp cho sự linh hoạt của cơ thể người bệnh tăng lên.

Một số động tác tập luyện đơn giản giúp cho người bệnh Parkinson kéo dài sự sống và vận động hiệu quả như các chuyên gia khuyến cáo và hướng dẫn:

-Đi bộ và xoay người (đi theo đường thẳng, bước từng bước dài và dạng tách hai chân để giữ thăng bằng tốt hơn, đong đưa hai tay đều đặn, khi cần xoay lại hãy đi thành đường cung tròn);

-Tập “đi” khi đang ngồi: ngồi trên ghế có lưng tựa, lần lượt nhấc đầu gối phải và trái lên cao như khi đang đi bộ. Lặp lại động tác này 10 lần;

-Ngồi lên khỏi giường khi đang nằm: xoay người nằm nghiêng và co hai đầu gối lại. Trước tiên, đặt hai chân ra khỏi giường sau đó dùng hai tay để chống trên mặt giường để ngồi dậy;

-Kéo vai: ngồi hoặc đứng với lưng thẳng đứng, hai tay để phía trước, hai bàn tay và hai khuỷu tay áp sát nhau. Đưa hai tay ra hai bên càng xa càng tốt sao cho hai bả vai sau lưng co lại gần nhau. Đưa tay về vị trí cũ ở trước mặt. Lặp lại động tác này 10 lần;

-Đứng lên và ngồi xuống: chọn những loại ghế tựa có tay vịn và chỗ ngồi chắc chắn. Khi muốn đứng lên phải nghiêng người về phía trước và dùng hai tay vịn vào bờ ghế để đẩy lên. Khi muốn ngồi xuống, quay lưng về phía ghế và nghiêng người về phía trước rồi từ từ ngồi xuống, dùng hai tay vịn trên tay nắm của ghế;

-Động tác vặn người: ngồi trên ghế, hai tay để trên vai và xoay phần trên của cơ thể từ phải qua trái và ngược lại. Làm càng nhanh càng tốt. Lặp lại động tác này 10 lần.

Hy vọng với các bài tập trên giúp cho người thân của bạn sống lâu, sống khỏe!

Lê Văn Phước, 40 tuổi, Sóc Trăng, 0918….

Hỏi: Tôi hỏi các bác sĩ một vấn đề này vì vừa qua tôi được các bác sĩ ở bệnh viện da liễu hồ chí minh chẩn đoán và cho thuốc điều trị đỏ da toàn thân. Tôi muốn hỏi bệnh đỏ da toàn thân là gì và nguyên nhân nào dẫn đến đỏ da toàn thân, cách điều trị như thế nào khỏi bệnh hoặc hạn chế diễn biến của bệnh. Tôi rất cảm ơn!

Trả lời:

Với câu hỏi của bạn, chúng tôi xin trả lời như sau: đỏ da toàn thân hay viêm da đỏ tróc vảy toàn thân, là tình trạng toàn thể da bệnh nhân đỏ khắp người như hình ảnh con tôm luộc từ đầu đến chân. Phù nề toàn thân, tiết dịch hoặc đỏ da bong vảy khô và rụng lông tóc. Bệnh do nhiều nguyên nhân nhưng nguyên do dùng thuốc “không có kiểm soát” dẫn đến bệnh đỏ da toàn thân là điều mà chúng ta cần lưu ý.
 

Bệnh có thể bắt đầu với những mảng đỏ, sưng phù, lan rộng nhanh chóng, cho đến khi toàn bộ da bị tổn thương. Khởi đầu có kèm theo các triệu chứng nhiễm độc của toàn thân. Da trở nên đỏ phù, có tiết dịch, tróc vảy da rất rõ sau vài ngày, vảy da khô hoặc ướt, mịn và khô nhỏ, có khi là mảng lớn. Mảng lớn thường gặp ở lòng bàn tay, bàn chân, da đầu thường có vảy dày kết hợp với chất bã nhờn và những sản phẩm của nhiễm khuẩn thứ phát. Kết mạc mắt và niêm mạc đường hô hấp cũng bị ảnh hưởng. Nhiễm khuẩn thứ phát do vi khuẩn sinh mủ thường làm cho diễn biến bệnh nặng hơn. Khi đó người bệnh sẽ thấy những dấu hiệu cơ năng như: ngứa, rét run, sốt, làm bệnh nhân khó chịu, xuất hiện nhiều mụn nước và mụn mủ toàn thân.

Nguyên nhân mắc bệnh đỏ da toàn thân

-Bệnh đỏ da toàn thân tiên phát hay gặp trong bệnh Willson-Brocq, bệnh nhân xuất hiện đỏ da lan dần toàn thân kèm theo xuất hiện hạch ngoại vi;

-Đỏ da toàn thân thứ phát xảy ra sau những bệnh da có từ trước như vảy nến, bệnh liken phẳng, chàm cấp, vảy nến đỏ nang lông, pemphigus dạng vảy lá, sau nhiễm khuẩn, nhất là liên cầu, do bệnh máu ác tính, u sùi dạng nấm, biểu mô bào lưới, lympho Hodgkin;

-Đỏ da toàn thân bẩm sinh;

-Đỏ da toàn thân do thuốc hay gặp nhất so với các nguyên nhân khác (một trong những biểu hiện lâm sàng của dị ứng nhiễm độc da với các thể hồng ban đa dạng, hội chứng Steven Johnson, hội chứng Lyell, hồng ban cố định nhiễm sắc. Đỏ da toàn thân do thuốc được xem như một bệnh da cấp cứu. Thường do dùng dài ngày, liều cao, hay gặp trong quá trình điều trị bằng các thuốc kháng sinh như penicilline, streptomycine, sulfamide, chlorocide, quinine; thuốc an thần gardenan, barbiturate; thuốc hạ nhiệt giảm đau: pyramidon; thủy ngân, asen, cà độc dược, mã tiền... những thuốc này hay gây dị ứng ở những bệnh nhân có cơ địa mẫn cảm;

-Biểu hiện của đỏ da toàn thân do thuốc xuất hiện đột ngột sau khi dùng thuốc dưới các dạng tiêm, uống, xông hoặc bôi, bệnh nhân thấy sốt cao kèm theo rét run, đau đầu, rối loạn tiêu hóa, cơ thể mệt mỏi uể oải, ngứa da. Sau 1 - 2 ngày bệnh đến giai đoạn toàn phát: bệnh nhân tiếp tục ngứa khắp người, ở đầu chi và mi mắt ngứa nhiều hơn, da đỏ và loang rộng khắp cơ thể. Có thể bong vảy da ở vùng da mỏng, vảy bong như vảy phấn. Đồng thời với tổn thương da còn xuất hiện các triệu chứng: nổi hạch nhiều nơi, hạch to, di động và đau; gan to, có biểu hiện rối loạn chức năng; phù, tiểu ít, có albunin niệu, hồng cầu, bạch cầu và trụ niệu; trường hợp nặng có thể vô niệu; urê huyết cao, rối loạn điện giải. Thời kỳ lui bệnh, thường khoảng từ ngày thứ 10 trở đi, nếu được điều trị tốt, bệnh nhân đỡ hoặc hết sốt, da bớt đỏ dần và trở nên sẫm màu. Tuy tổn thương da thuyên giảm nhưng lại xuất hiện các rối loạn chức năng của các cơ quan như: rối loạn dự trữ kiềm, toan hóa máu, urê huyết cao, rối loạn điện giải, rối loạn chức năng gan, thận. Nhiều tai biến dẫn đến cấp cứu nội khoa cũng hay xảy ra ở thời kỳ này;
  

-Một số trường hợp người lớn trưởng thành hiện nay có ý tưởng đi tắm trắng để có được làn da như mong muốn, sau đó để lại hậu quả như đỏ da toàn thân trên một số phụ nữ báo cáo gần đây, cần phân biệt đỏ da do thuốc và đỏ da co tác động cơ học khác;

-Một số thuật ngữ cần gián biệt khi tra cứu bệnh lý là red skin syndrome (hội chứng đỏ da), hay đỏ da (erythroderma),…

Nguyên tắc và thái độ xử trí của đỏ da toàn thân

Nguyên tắc điều trị là tùy theo nguyên nhân và mức độ của bệnh mà có cách điều trị thích hợp. Thận trọng trong việc dùng thuốc tại chỗ và toàn thân. Người bệnh nặng phải được điều trị ở những nơi có hệ thống cấp cứu kịp thời. Kết hợp cả điều trị toàn thân và điều trị tại chỗ. Với toàn thân cần truyền dịch, truyền đạm, dinh dưỡng thích hợp. Dùng vitamine C liều cao, kháng sinh và corticoid kèm theo tùy theo từng trường hợp. Khi dùng thuốc điều trị tại chỗ cần lưu ý thận trọng vì trên nền da người bệnh đã bị viêm nhiễm, mất sức đề kháng nên dễ gây phản ứng, dị ứng tùy theo giai đoạn của tổn thương, cấp, bán cấp và mạn tính mà có thuốc bôi cho thích hợp.

Nên kiểm tra sức khỏe ít nhất 1 lần/năm để phát hiện bệnh sớm, tránh mọi yếu tố như thuốc, hóa chất có thể gây tổn thương da. Vệ sinh da tốt theo đúng hướng dẫn của thầy thuốc. Khi mắc bệnh ngoài da cần phải đến ngay bác sĩ chuyên khoa, không được tự động bôi thuốc dù bệnh rất nhẹ. Không dùng thuốc bừa bãi kể cả thuốc tại chỗ và toàn thân khi chưa có chỉ định của bác sĩ. Trong gia đình có người bị dị ứng do thuốc thì các thành viên khác nên cẩn thận khi phải dùng thuốc chữa bệnh. Khi dùng thuốc nên ghi nhận những thuốc đã dùng và theo dõi trong vài ngày sau để phát hiện những biểu hiện bệnh ở da.

Bệnh đỏ da toàn thân hay gặp nhất là nguyên nhân do thuốc, thường chiếm 2-3% bệnh nhân nhập viện. Việc sử dụng thuốc bừa bãi là một trong những nguyên nhân dẫn đến đỏ da toàn thân do thuốc. Bệnh thường xảy ra ở người cao tuổi, nhất là phụ nữ. Ða số các trường hợp bệnh phản ứng nhẹ, thường kèm ngứa, triệu chứng giảm sau ngưng thuốc. Tuy nhiên cũng có trường hợp nặng đe dọa tính mạng bệnh nhân và khó tiên lượng.

Với các thông tin trên hy vọng bạn sẽ biết đươc một số thông tin cần thiết và tối thiểu về bệnh đỏ da toàn thân.

Đào Thị L, 50 tuổi, TT Phú Túc, Krongpa, Gia Lai, 0126….

Hỏi: Xin thưa các bác sĩ cho tôi hỏi, ông chồng tôi năm nay 52 tuổi bị chẩn đoán gút đã 6 năm nay, nhưng do tính chất công việc kinh doanh thường xuyên tiếp khác và uống nhiều bia rượu, nên cứ vài tuàn là bọ lại và đau nhức không thể chịu được. Tôi không biết chế độ ăn uống cho người bệnh gút như thế nào cho phải, mong nhận được sự tư vấn và lời khuyên từ bác sĩ. Trân trọng cảm ơn!

Trả lời:

Đây là một câu hỏi mang tính thời đại bởi các bệnh lý như thế thuộc nhóm bệnh chuyển hóa các chất, do chế độ ăn gây ra, tạo cho acide uric trong máu tăng cao và tạo các nốt atopi, gây đau các khớp,…và một trong những vấn đề khó điều trị bệnh gút chính là chế độ ăn kiêng khem không thực hiện đầy đủ, rượu bia cũng là một trong những nguyên do gây nặng thêm bệnh. Do vậy, chế độ ăn uống hợp lý sẽ làm cho chồng bạn giảm được bệnh rất nhiều.
 

Liên quan đến câu hỏi của bạn, chế độ ăn uống của người tăng acid uric máu hay bị bệnh gút là không nên dùng nhiều rượu mạnh. Không ăn các thức ăn chứa nhiều purine như: phủ tạng động vật: tim, gan, thận, lá lách, óc..., hột vịt, gà lộn, trứng cá, cá trích, cá đối, cá mòi. Không ăn mỡ động vật, không ăn đường. 

Một số thức ăn dùng hạn chế

·Hạn chế protid (<1g protein/kg/ ngày tương đương < 200g thịt nạc mỗi ngày). 

·Không ăn nhiều (vừa phải, điều độ) đồ biển (tôm, cua…). 

·Không ăn nhiều (vừa phải, điều độ) các loại đậu hạt, măng tây. 

·Không ăn nhiều (vừa phải, điều độ) chocolate, cacao, trà, cà phê.

Một số thức ăn nên dùng nhiều

·Các loại rau xanh, trái cây tươi.

·Uống nhiều nước, nước khoáng có bicarbonate, nước sắc lá xakê.

·Các loại ngũ cốc.

·Sữa, trứng.

·Chế độ sinh hoạt

·Chống béo phì.

·Tăng cường vận động.

·Tránh stress, tránh gắng sức, tránh lạnh đột ngột…

Trong đa số trường hợp, chế độ ăn uống góp phần điều trị cho bệnh gút và các bệnh kèm theo (cao huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu…) chứ không thể thay được thuốc. Thực hiện tốt chế độ ăn uống có thể giảm bớt số lượng thuốc, số loại thuốc cần dùng, giảm bớt các hậu quả xấu của bệnh. Chế độ ăn uống được sử dụng để thay thế thuốc trong một số ít trường hợp, người bệnh không dùng được các thuốc làm hạ acid uric (dị ứng thuốc, suy thận, suy gan…).

Chế độ ăn uống và chế độ sinh hoạt sẽ giúp phòng ngừa bệnh gút, làm giảm số người trở thành bệnh nhân gút. Như vậy, chế độ ăn uống không thể thay thế được các thuốc điều trị bệnh Gout, nhưng có một vai trò quan trọng trong điều trị, góp phần làm bệnh gút và các bệnh kèm theo dễ kiểm soát hơn, giảm bớt liều thuốc phải dùng, giảm bớt số thuốc phải dùng. Chế độ ăn uống càng quan trọng hơn khi người bệnh bị dị ứng với các thuốc làm giảm acid uric máu, hoặc vì một lý do nào đó không sử dụng được các thuốc này. Chế độ ăn uống còn là biện pháp chính, không thể thiếu được trong việc phòng ngừa bệnh gút cho các đối tượng có tăng acid uric máu đơn thuần.

Cũng cần lưu ý về phương thức chẩn đoán và điều trị hiện nay theo ý kiến của các chuyên gia rất nghiêm ngặt, không phải trường hợp nào có tăng acide uric quá ngưỡng cho phép đều phải kê thuốc điều trị hoặc cho thuốc hạ acid uric là không nên, cần tham vấn ý kiến bác sĩ và trước khi dùng thuốc thì nên có chết độ ăn thích hợp để giảm bớt tình trạng tăng acide uric, khi không có khả thi thì mới dùng đến thuốc nhé!

Triệu Quang Long, 26 tuổi, cử nhân CNTT, ĐH Bách khoa TP. Hồ Chí Minh

Hỏi: Bác sĩ ơi, tôi bị viêm đại tràng nhiều năm qua nhưng khi đi điều trị, uống thuốc thì giảm bớt được vài tháng, đi ăn tiệc uống chút bia, rượu hoặc ăn lạ lạ vào thì triệu chứng tái phát, khi khám bác sĩ các nơi đề chẩn đoán tôi bị IBS, hội chứng đại tràng kích thích, viêm đại tràng co thắt,…tôi không biết các bệnh lý này có giống nhau không, hay khác nhau. Xin bác sĩ giải thích.

Trả lời:

Rất cảm thông với các triệu chứng bệnh lý đại tràng của bạn, thực ra các thuật ngữ chẩn đoán của các bác sĩ tại các bệnh viện khác nhau đề cập trên bệnh của bạn là tương đương nhau và có biểu hiện triệu chứng gần như giống nhau, trong đó từ IBS viết tắt của cụm từ Irritable Bowel Syndrome, cũng là hội chứng đại tràng kích thích.

Một số tác giả khi chẩn đoán hay dùng thuật ngữ viêm đại tràng hay viêm đại tràng co thắt gây ra đau đớn và là nỗi ám ảnh có nhiều bệnh nhân mắc chứng bệnh này. Viêm đại tràng co thắt hay còn gọi là hội chứng ruột kích thích (IBS), rối loạn chức năng đại tràng, bệnh đại tràng chức năng. Các rối loạn tiêu hóa mạn tính tái đi tái lại, kéo dài ít nhất 3 tháng mà không làm thay đổi cấu trúc hay yếu tố sinh hóa của dạ dày, ruột. Viêm đại tràng co thắt có liên quan chặt chẽ tới tỷ lệ thực phẩm thông qua đại tràng thay đổi .Viêm đại tràng co thắt là bệnh hay gặp ở người lớn tuổi, nhưng nhóm tuổi trung niên trong cuộc sống hiện đại, với nhiều bia rượu như hiện nay, tỷ lệ mắc bệnh cũng chiếm tỷ lệ không nhỏ.

Việc phòng tránh viêm đại tràng một cách hiệu quả thì lời khuyên cho bạn là bạn nên đi khám định kỳ 6 tháng một lần để phát hiện ra bệnh. Một khi đã có dấu hiệu của bệnh bạn cần đi khám bệnh ở chuyên khoa tiêu hóa để xác định nguyên nhân và điều trị dứt điểm ngay từ đầu, không để bệnh trở thành mạn tính. Để phòng bệnh, cần ăn uống đảm bảo vệ sinh. Không nên lạm dụng gia vị, rượu, bia, chất chua, cay trong các bữa ăn hằng ngày…

Viêm đại tràng co thắt được phân thành 3 loại cơ bản: (i) Loại 1 có hiện tượng đau bụng và tiêu chảy; Loại 2 có hiện tượng đau bụng và táo bón; Loại 3: Có hiện tượng đau bụng, vừa tiêu chảy lại vừa táo bón.

Có khoảng 20% dân số trên thế giới bị viêm đại tràng co thắt. Riêng tại Việt Nam thì có khoảng 30-40% bệnh nhân đến khám chuyên khoa tiêu hóa bị hội chứng ruột kích thích, viêm đại tràng co thắt. Viêm đại tràng co thắt thường gặp ở nữ giới (cứ 4 nữ giới mắc viêm đại tràng co thắt thì có 1 nam giới bị mắc chứng bệnh này). Người dễ mắc viêm đại tràng co thắt là bệnh nhân rối loạn thần kinh chức năng, trầm cảm, ám ảnh hay bị sang chấn tâm lý… Bệnh không nguy hiểm đến tính mạng nhưng gây khó chịu, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống.

Nguyên nhân của viêm đại tràng co thắt rất đa dạng, và một trong những nguyên nhân điển hình có thể kể tới là: (i) Viêm đường ruột bởi ăn phải thức ăn không hợp vệ sinh - thức ăn có vi khuẩn thương hàn gây bệnh, vi khuẩn lỵ hoặc Entamoeba histolytica; (ii) Do rối loạn nhu động ruột; (iii) Do dùng quá nhiều kháng sinh đường ruột gây loạn khuẩn; (iv) Do rối loạn tâm thần, sang chấn tâm thần…

Việc chẩn đoán ra bệnh viêm đại tràng co thắt được xem là khó khăn và phức tạp. Với từng bệnh nhân mà bác sĩ đưa ra các chỉ định xét nghiệm khác nhau và còn tùy thuộc vào trang thiết bị của từng phòng xét nghiệm. Đôi khi chỉ khai thác các triệu chứng lâm sàng và thói quen đại tiện của bệnh nhân, cũng như tính chất đặc cứng hoặc lỏng của phân cũng giúp cho các thầy thuốc xác định bệnh gàn như 90% số ca bệnh.

·Trường hợp bệnh nhân bị nghi loạn khuẩn có thể cho xét nghiệm vi khuẩn chí, xét nghiệm tìm các loại trứng giun, sán

·Nếu trường hợp nghi ngờ nhiễm viêm đại tràng với lý do khác có thể cho chụp khung đại tràng có thuốc cản quang, và nếu có điều kiện thì có thể tiến hành nội soi đại tràng …Bệnh viêm đại tràng co thắt ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống (không thoải mái, kiêng khem quá mức, hay cáu gắt dễ nổi nóng, lúc nào cũng lo đến bệnh tật của mình).

Bệnh viêm đại tràng co thắt có rất nhiều triệu chứng khác nhau, nhưng triệu chứng điển hình nhất của viêm đại tràng co thắt là đau bụng. Đau bụng đa dạng, có thể đau sau khi ăn, có thể đau khi ăn no, đặc biệt là đau sau khi ăn một số thức ăn lạ, chua, cay, lạnh…Do cơn đau dai dẳng, đặc biệt đau sau khi ăn, thế nên hầu hết người bệnh bị viêm đại tràng co thắt không dám ăn những thức ăn có dạng như vậy.

Khi căng thẳng, stress thì cơn đau xuất hiện nhiều hơn. Viêm đại tràng co thắt thường đau vùng bụng ở dưới rốn, đau quặn, ợ hơi, đầy bụng, chướng hơi, khó tiêu, dễ gây nhầm với bệnh đau dạ dày. Hầu hết người bệnh đều cho biết, hết cơn đau bụng sau khi đi đại tiện. Nhưng, cũng có nhiều bệnh nhân viêm đại tràng co thắt mạn tính thì vừa đi ngoài xong chưa vào đến phòng nghỉ đã xuất hiện cơn đau quặn bụng khác muốn đi ngoài tiếp.

Trên thực tế có nhiều bệnh nhân viêm đại tràng không hề có chút gì bia rượu và chế độ ăn rất thích hợp, cũng như các xét nghiệm nhiều lần và nhiều mẫu phân liên tiếp đều không xác định vi khuẩn hoặc tác nhân gây bệnh khác nhau.

Ngày 06/05/2015
TS.BS. Huỳnh Hồng Quang, PGS.TS. Triệu Nguyên Trung  
    Các nội dung khác »

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích