Home TRANG CHỦ Thứ 5, ngày 18/04/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Finance & Retail Hoạt động hợp tác
Hợp tác trong nước
Hợp tác quốc tế
Dân tộc thiểu số
Dự án Quỹ toàn cầu PCSR
Quân dân y kết hợp
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Web Sites & Commerce Chuyên đề
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 2 4 4 7 1 2 7
Số người đang truy cập
9 5
 Hoạt động hợp tác Dân tộc thiểu số
Thiếu nữ Dao Đỏ. (Ảnh: http://quehuongonline.vn)
Người dân tộc Dao tại Việt Nam

              Người dân tộc Dao còn có các tên gọi khác là Mán, Ðông, Trại, Dìu Miền, Kim Miền, Lù Gang, Làn Tẻn, Ðại Bản, Tiểu Bản, Cốc Ngáng, Cốc Mùn, Sơn Ðầu... Tên thường tự gọi là Kìm Miền, Kìm Mùn. Dân tộc này có các nhóm địa phương khác nhau như Dao Ðỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao Sừng, Dao Dụ Lạy, Dao Ðại Bản), Dao Quần Chẹt (Dao Sơn Đầu, Dao Tam Đảo, Dao Nga Hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô Gang (Dao Thanh Phán, Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Ðeo Tiền, Dao Tiểu Bản), Dao Quần Trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao Áo Dài). Họ sử dụng nhóm ngôn ngữ Mông-Dao.

 

Địa bàn cư trú và dân số

Người dân tộc Dao cư trú dọc biên giới Việt-Trung, Việt-Lào; một số tỉnh trung du và ven biển Bắc Bộ. Họ sống tập trung ở các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lai Châu, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ... Ngoài ra, còn có một số di chuyển vào các tỉnh Tây Nguyên như Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng và các tỉnh miền Đông Nam Bộ như Đồng Nai, Bình Phước...

Tại Việt Nam, dân tộc Dao theo điều tra dân số năm 1999 có 620.538 người. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân tộc Dao ở Việt Nam có dân số 751.067 người, cư trú tại 61 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Dao cư trú tập trung tại các tỉnh Hà Giang 109.708 người, chiếm tỷ lệ 15,1% dân số toàn tỉnh và 14,6% tổng số người Dao tại Việt Nam; tỉnh Tuyên Quang 90.618 người, chiếm tỷ lệ 12,5% dân số toàn tỉnh và 12,1% tổng số người Dao tại Việt Nam; tỉnh Lào Cai 88.379 người, chiếm tỷ lệ 14,4% dân số toàn tỉnh và 11,8% tổng số người Dao tại Việt Nam; tỉnh Yên Bái 83.888 người, chiếm tỷ lệ 11,3% dân số toàn tỉnh và 11,2% tổng số người Dao tại Việt Nam; tỉnh Quảng Ninh 59.156 người, chiếm tỷ lệ 5,2% dân số toàn tỉnh; tỉnh Bắc Kạn 51.801 người, chiếm tỷ lệ 17,6% dân số toàn tỉnh; tỉnh Cao Bằng 51.124 người, chiếm tỷ lệ 10,1% dân số toàn tỉnh; tỉnh Lai Châu 48.745 người, chiếm tỷ lệ 13,2% dân số toàn tỉnh; tỉnh Lạng Sơn 25.666 người; tỉnh Thái Nguyên 25.360 người...

Về đặc điểm lịch sử

Người dân tộc Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bàn Hồ (Bàn Vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng của người dân tộc Dao.

Về đặc điểm kinh tế

Người dân tộc Dao sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nương và lúa nước với kỹ thuật canh tác khá tiến bộ. Họ vừa làm nương vừa làm ruộng. Xưa kia họ chuyên du canh, du cư; sau năm bảy năm canh tác trên vùng đất cũ, họ bỏ làng, bỏ bản đi tìm vùng đất mới. Ngày nay người dân tộc Dao đã bỏ phong tục đó, xây dựng cuộc sống mới định canh, định cư; vừa phát triển nương rẫy, vừa bảo vệ và khai thác rừng hợp lý. 

Nương rẫy, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức canh tác phổ biến của người dân tộc Dao. Tuỳ từng nhóm dân tộc, từng vùng; hình thức canh tác này hoặc hình thức canh tác khác nổi trội lên như: người Dao Quần Trắng, Dao Áo Dài, Dao Thanh Y chuyên làm ruộng nước; người Dao Ðỏ thường thổ canh hốc đá. Phần lớn các nhóm dân tộc Dao khác làm nương rẫy, du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa, ngô, các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai... Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà ở vùng lưng chừng núi và ở vùng cao còn nuôi ngựa, dê. Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến ở các nhóm dân tộc Dao. Họ ưa dùng vải nhuộm chàm.

Hầu hết các xóm bản người Dao đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Nhiều nơi còn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức như vòng cổ, vòng chân, vòng tay, vòng tai, nhẫn, dây bạc, hộp đựng trầu...

Nhóm Dao Ðỏ và Dao Tiền có nghề làm giấy bản. Giấy bản dùng để chép sách cúng, sách truyện, sách hát hay dùng cho các lễ cúng như viết sớ, tiền ma. Nhiều nơi có nghề ép dầu thắp sáng hay dầu ăn, nghề làm đường mật...

 Người Dao đỏ

 Người Dao tiền

Về phong tục tập quán

Người dân tộc Dao thờ tổ tiên là Bàn Hồ. Qua tên đệm xác định dòng họ và thứ bậc. Trong hôn nhân gia đình, sau khi cưới người con trai phải đến ở rể nhà vợ. Thời hạn ở rể có thể một vài năm hoặc có thể vĩnh viễn. Việc ma chay thường theo tục lệ xa xưa. Vài vùng có tập tục hoả táng cho người chết từ 12 tuổi trở lên.

Về văn hoá, người dân tộc Dao có nền văn hoá lịch sử lâu đời và tri thức dân gian rất phong phú, đặc biệt là y học cổ truyền. Họ không có văn tự riêng mà sử dụng chữ Hán đã được Dao hoá gọi là chữ Nôm Dao.

Người dân tộc Dao thường ăn hai bữa chính trong ngày, bữa trưa và bữa tối. Chỉ những ngày mùa bận rộn mới ăn thêm bữa sáng. Người Dao ăn cơm là chính, ở một số nơi lại ăn ngô nhiều hơn ăn cơm hoặc ăn cháo. Cối xay lúa thường dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. Cối giã có nhiều loại như cối gỗ hình trụ, cối máng giã bằng chày tay, cối đạp chân, cối giã bằng sức nước. Họ thích ăn thịt luộc, các món thịt sấy khô, ướp chua, canh măng chua. Khi ăn xong, người dân tộc Dao kiêng để đũa ngang miệng bát vì đó là dấu hiệu trong nhà có người chết. Thức uống phổ biến là rượu cất, ở một vài nơi lại uống hoãng, thứ rượu không qua chưng cất, có vị chua và ít cay. Người Dao thường hút thuốc lá và thuốc lào bằng điếu cầy hay tẩu.

Về trang phục, người nam mặc quần, áo. Trước đây đàn ông để tóc dài, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn. Các nhóm dân tộc Dao thường có cách đội khăn khác nhau. Áo có hai loại, áo dài và áo ngắn. Người phụ nữ dân tộc Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài yếm, váy hoặc quần áo ngắn hay`dài màu chàm và đầu đội khăn. Y phục rất sặc sỡ. Hiện nay trang phục người Dao vẫn giữ được các nét hoa văn truyền thống với những trang trí hoa văn truyền thống. Họ không theo theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên trên mặt phải. Nhiều loại hoa văn được sử dụng như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây. Cách in hoa văn trên vải bằng sáp o­ng của người Dao rất độc đáo. Muốn hình gì, họ dùng bút vẽ hay nhúng khuôn in vào sáp o­ng nóng chảy rồi in lên vải. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn mầu xanh lơ do phủ lớp sáp o­ng không bị thấm chàm.

Về nơi ở, người dân tộc Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi tại hầu khắp các tỉnh miền núi phía Bắc. Tuy nhiên, có một số nhóm dân tộc như Dao Quần Trắng ở thung lũng, còn Dao Ðỏ lại ở trên núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác, có năm bảy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau tuỳ theo nơi, họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất. Kiến trúc nhà ở của người Dao cũng rất phong phú, tuỳ nhóm dân mà dựng nhà trệt hay nửa sàn, nửa đất. Hiện nay tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, ngôi nhà nửa sàn nửa đất được chọn để trưng bày và giới thiệu. Loại nhà nửa sàn nửa đất là loại kiến trúc nhà cửa của riêng người Dao, gắn liền với cuộc sống du canh, du cư trước đây. Điều đặc biệt là toàn bộ ngôi nhà của người Dao đều được làm bằng tranh, tre, nứa, lá; không bao giờ có một chút gạch ngói. 8 cột cái trong nhà được làm bằng những cây gỗ quí, có tuổi rất già từ 80 đến 90 năm. Mỗi lần chuyển nhà, họ có thể bỏ phên, tranh, tre, nứa, lá; còn những cột cái bằng gỗ quí có sức bền với thời gian thì họ chuyên chở đi để làm ngôi nhà nơi ở mới.

 Một kiểu kiến trúc nhà ở của người Dao

Phương tiện vận chuyển
của người dân tộc Dao ở vùng cao thường dùng địu có hai quai đeo vai, vùng thấp thì gánh bằng đôi dậu. Túi vải hay túi lưới đeo vai rất được họ ưa dùng.

Trong quan hệ xã hội, ở thôn xóm tồn tại chủ yếu các quan hệ xóm giềng và quan hệ dòng họ. Người dân tộc Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là các họ Bàn, Ðặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người thuộc các thế hệ khác nhau.

Các tập tục sinh hoạt

Về sinh đẻ, phụ nữ người Dao thường đẻ ngồi, đẻ ngay tại trong buồng ngủ. Trẻ sơ sinh được tắm bằng nước nóng. Nhà có người ở cữ thường treo cành lá xanh hay cài hoa chuối trước cửa để làm dấu không cho người lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng tới sức khoẻ đứa trẻ. Trẻ sơ sinh được ba ngày thì làm lễ cúng mụ.

Về cưới xin, trai gái muốn lấy được nhau phải so tuổi, bói chân gà xem có hợp nhau không. Có tập tục chăng dây, hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái trước khi vào nhà, hát trong đám cưới. Lúc đón dâu, cô dâu được cõng ra khỏi nhà gái và bước qua cái kéo mà thầy cúng đã làm phép mới được vào nhà trai.

Về ma chay, Thày tào có vị trí quan trọng trong việc cúng ma và làm chay. Nhà có người chết, con cái đến nhà thầy mời về chủ trì các nghi lễ, tìm đất đào huyệt. Họ kiêng khâm liệm người chết vào giờ sinh của những người trong gia đình. Người chết được liệm vào quan tài để trong nhà hay chỉ bó chiếu ra đến huyệt rồi mới cho vào quan tài. Mộ được đắp đất, xếp đá ở chân mộ; ở một số nơi có tập tục hoả táng cho những người chết từ 12 tuổi trở lên. Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình. Lễ tổ chức ba ngày, ngày đầu gọi là lễ phá ngục, giải thoát hồn cho người chết; ngày thứ hai gọi là lễ tắm hương hoa cho người chết trước khi đưa hồn về bàn thờ tổ tiên trong nhà; ngày thứ ba lễ cấp sắc. Người chết được cúng đưa hồn về quê cũ ở Dương Châu.

Trong tập tục làm nhà mới, muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi của chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào mộng báo đêm đó mà biết điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hố, các hạt gạo vẫn giữ nguyên vị trí là có thể làm nhà được.

 Lễ hội đón xuân của dân tộc Dao

Trong thờ cúng, người dân tộc Dao vừa tin theo các tín ngưỡng nguyên thuỷ, các nghi lễ nông nghiệp; vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và nhất là Ðạo giáo. Bàn Vương được coi là thủy tổ của người dân tộc Dao nên được cúng chung với tổ tiên từng gia đình. Theo truyền thống, tất cả đàn ông đã đến tuổi trưởng thành đều phải qua lễ cấp sắc, một nghi lễ vừa mang tính chất của Ðạo giáo, vừa mang những nét của lễ thành đinh xa xưa.

Người dân tộc Dao thường quen dùng âm lịch để tính thời gian sản xuất và sinh hoạt. Hầu hết các xóm thôn của người dân tộc Dao đều có người biết chữ Hán, chữ Nôm Dao. Người Dao học chữ để đọc sách cúng, sách truyện, thơ. Họ có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú, nhiều truyện cổ, bài hát, thơ ca. Ðặc biệt truyện Quả bầu với nạn hồng thuỷ, Sự tích Bàn Vương rất phổ biến của người Dao. Múa, nhạc được họ sử dụng chủ yếu trong các nghi lễ tôn giáo. Người dân tộc Dao thích chơi đu, chơi quay, đi cà kheo.

 

Ngày 22/08/2011
TTƯT.BS. Nguyễn Võ Hinh  

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích