Home TRANG CHỦ Thứ 7, ngày 20/04/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Web Sites & Commerce Chuyên đề
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 2 4 7 3 7 4 6
Số người đang truy cập
1 3 2
 
Làm thế nào sử dụng thuốc kháng sinh hợp lý và hiệu quả?

Kháng sinh là một vũ khí quan trọng để chống lại các vi sinh vật gây bệnh. Tuy nhiên với tình hình sử dụng kháng sinh một cách không kiểm soát như hiện nay, cùng với ý thức của bệnh nhân trong việc dùng kháng sinh đã dẫn tới một loạt các hệ quả mà ngày nay con người đang phải vất vả khắc phục nó. Các hệ quả có thể thấy ngay đó là xuất hiện các biến chứng với nhóm bệnh nhân dị ứng với một số loại kháng sinh nhất định; vi khuẩn đã trở nên kháng thuốc hơn làm cho hiệu quả điều trị không cao. Vậy cần chú ý những vấn đề gì khi sử dụng kháng sinh? Bệnh nhân - những người cần phải sử dụng kháng sinh để điều trị cần chú ý những vấn đề sau:

+Kháng sinh được dùng phải là kháng sinh mà vi khuẩn gây bệnh còn nhạy cảm (cần điều trị theo chỉ dẫn của kháng sinh đồ).

+Nên chọn các kháng sinh có phổ tác dụng hẹp nhất, hạn chế sử dụng các kháng sinh có phổ tác dụng rộng.

+Kháng sinh phải được dùng với liều lượng và cách dùng thích hợp tuỳ theo bệnh và người bệnh.

+Khoảng thời gian dùng kháng sinh cần càng ngắn càng tốt, nhưng phải đảm bảo tiêu diệt được mầm bệnh, do đó thường phải dùng thêm 2 - 3 ngày sau khi hết triệu chứng nhiễm khuẩn.

+Phối hợp kháng sinh cần tuân theo nguyên tắc sau: có hai nhóm kháng sinh, nhóm có tác dụng diệt khuẩn và nhóm có tác dụng kìm hãm sự sinh trưởng, phát triển của vi khuẩn.

+Chỉ được phối hợp các kháng sinh trong cùng một nhóm, không được phối hợp hai kháng sinh khác nhóm.
 

Việc sử dụng kháng sinh hợp lý phải dựa vào chẩn đoán lâm sàng chính xác và rất cần thiết phải dựa vào kết quả xét nghiệm vi sinh để định rõ bản chất của vi khuẩn gây bệnh và tính nhạy cảm của nó với kháng sinh. Tuy nhiên, trong những trường hợp cần điều trị ngay, trước khi phân lập được vi khuẩn thì phải dựa vào kinh nghiệm và sự hiểu biết về tính nhạy cảm phổ biến đối với kháng sinh của vi khuẩn gây ra bệnh của bệnh nhân. Vì tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của việc sử dụng kháng sinh hợp lý, chúng ta không nên tự ý sử dụng kháng sinh khi có triệu chứng nhiễm khuẩn, mà cần tới bác sĩ để khám và được hướng dẫn cụ thể.

I. Kháng sinh phổ rộng

Những kháng sinh này thường được chỉ định điều trị trong những trường hợp nhiễm khuẩn có khả năng đe dọa tính mạng và chưa có kết quả kháng sinh đồ. Kháng sinh phổ rộng không nên sử dụng theo kinh nghiệm và bừa bãi trong các loại nhiễm khuẩn. Có nhiều cuộc tranh luận về việc sử dụng kháng sinh phổ rộng làm gia tăng tỷ lệ đề kháng thuốc. Thói quen sử dụng kháng sinh phổ rộng trong những trường hợp nhiễm khuẩn nhẹ có ý nghĩa làm tăng thêm tỷ lệ nhiễm khuẩn và tỷ lệ vi khuẩn đề kháng và gây khó khăn cho việc điều trị. Theo nguồn của CDC, việc sử dụng bừa bãi kháng sinh phổ rộng hiện nay làm tăng nguy cơ gấp 2 lần khả năng nguy cơ nhiễm vi khuẩn đề kháng.

 
Vi khuẩn đề kháng với nhóm Fluoroquinolones qua trung gian plasmid nên có thể đề kháng với hầu hết các nhóm còn lại. Vì những lý do này, kháng sinh nhóm Fluoroquinolon phổ rộng thế hệ
mới nên được để dành là thuốc lựa chọn trong những trường hợp những kháng sinh phổ rộng truyền thống bị chống chỉ định hay thất bại trong điều trị. Một số bệnh viện hiện nay đưa ra những quy định về việc sử dụng những kháng sinh như Vancomycin, Ceftriaxone và Imipenem cho những trường hợp đặc biệt. Điều này góp phần bảo vệ người bệnh tránh 2 lần nguy cơ nhiễm vi khuẩn đề kháng, và cũng giảm tỷ lệ đề kháng nhiều thuốc ở cộng đồng. Và hiện tại nhiều loại thuốc đã kháng với S. aureus, Enterococcus, Pseudomonas aeruginosa, ký sinh trùng sốt rét, lao phổi là những ví dụ về hậu quả của việc sử dụng bừa bãi kháng sinh điều trị.

Nhóm kháng sinh phổ rộng bao gồm: các thuốc thuộc Cephalosporins thế hệ thứ hai hoặc ba, Imipenem, nhóm beta-lactam, không kể đến nhóm Fluoroquinolones thế hệ mới và Chloramphenicol. Ở Mỹ, chloramphenicol được cân nhắc là thuốc thay thế trong những trường hợp đề kháng penicillins hoặc dị ứng penicillins ở những bệnh nhân viêm màng não.

Một vài thuốc thuộc nhóm Fluoroquinolones thế hệ mới được giới thiệu là kháng sinh phổ rộng có tác dụng mạnh. Moxifloxacin và Gatifloxacin đã được giới thiệu và được FDA chấp nhận trong chỉ định điều trị trên bệnh nhân nội trú và những chỉ định khác như: viêm phế quản mãn tính, nhiễm khuẩn bệnh viện, viêm phổi cộng đồng mắc phải, nhiễm trùng chân do bệnh tiểu đường, viêm tủy xương, nhiễm trùng đường tiểu không biến chứng.

Những thuốc thuộc thế hệ mới này có sự khác biệt đối với thế hệ cũ vì có tác động trên vi khuẩn gram (+) như vi khuẩn kháng penicillin Streptococcus pneumoniaeStaphylococcus aureus); vi khuẩn gram (-), vi khuẩn kỵ khí. Trong hầu hết điều kiện, những thuốc này đạt nồng độ trong huyết tương tương đương khi sử dụng đường tiêm và đường uống liều đơn mỗi ngày.
 

II. Kháng sinh nhóm Cephalosporin

Khi nghi ngờ, thì cephalosporin thế hệ thứ hai và thứ ba là sự lựa chọn tốt cho hầu hết những loại nhiễm khuẩn. Phổ kháng khuẩn phần lớn tương tự giữa các thuốc trong nhóm này bao gồm: gram (+), gram (-) và vi khuẩn kỵ khí. Sự khác biệt về phổ kháng khuẩn chủ yếu là liên quan Pseudomonas aeruginosa. Ví dụ về các thuốc thuộc nhóm này bao gồm Cefmetazole, Cefuroxim, Cefoxitin, Cefotetan và Cefamandole.

III. Kháng sinh điều trị vi khuẩn kỵ khí

Kháng sinh có tác dụng tốt trên vi khuẩn kỵ khí bao gồm: Metronidazole (250 mg PO, 500 mg IV), clindamycin IV (Dalacin C 600 mg), và amoxicillin/clavulanate PO (Claminat 625mg); ampicillin/sulbactam 3 g, piperacillin/tazobactam (Tazocin 4.5g).

Trong những trường hợp phẫu thuật phụ khoa có rạch bụng, nên chỉ định Metronidazol vì đây là thuốc duy nhất có thể có tác dụng với Bacteroides fragilis, vi khuẩn ruột kết thường gặp.

Mặc dù thực tế hầu hết các kháng sinh có thể liên quan với viêm đại tràng do Clostridium difficile, riêng Clindamycin có những bằng chứng có khả năng gây ra những tác dụng phụ nặng có thể gây tử vong. Vì lý do này, metronidazole là thuốc được lựa chọn ưu tiên trong những trường hợp nhiễm vi khuẩn kỵ khí.

IV. Kháng sinh điều trị Pseudomonas Aeruginosa

Nếu nghi ngờ nhiễm khuẩn do Pseudomonas, việc tăng liều được cân nhắc. Kháng sinh cótác dụng chống lại P aeruginosa bao gồm ceftazidime (cefodimex 1g), ticarcillin (Timentin 3.2g), aminoglycoside, imipenem, meropenem, levofloxacin và ciprofloxacin.

Việc phối hợp kháng sinh điều trị nên chọn 2 kháng sinh thuộc 2 nhóm khác nhau. Ví dụ, sự kết hợp của ticarcillin và tobramycin là thích hợp, trong khi sự kết hợp của ceftazidime và imipenem là không hợp lý. Piperacillin / Tazobactam không được lựa chọn điều trị nhiễm khuẩn Pseudomonas, ngoại trừ khi được sử dụng ở liều cao hơn bình thường và kết hợp với một aminoglycoside. Tử vong đã được báo cáo từ các bệnh nhiễm khuẩn Pseudomonas khi sử dụng theo liều đề nghị của nhà sản xuất thuốc này, ngay cả khi kết hợp với một thuốc thứ hai.
 

V. Kháng sinh điều trị cầu khuẩn Gram (+)

Một vài loài cầu khuẩn gram + đề kháng đang được chú ý đặc biệt; do vậy, sự chỉ định kháng sinh điều trị ban đầu không chính xác có thể gây tử vong nhanh cho bệnh nhân. Một số báo cáo gần đây cho thấy sự gia tăng tỷ lệ MRSA mắc phải cộng đồng. Vancomycin (2 g) nên được chỉ định đầu tiên cho bất kỳ trường hợp nghi ngờ nhiễm khuẩn nặng, bao gồm: viêm màng trong tim, viêm màng não…

Trong một vài trường hợp nhiễm khuẩn nặng, những thuốc mới hơn có thể dùng thay thế vancomycin. Những trường hợp này là những bệnh nhân đã từng nằm viện trong 24 tháng trước đây, có đến bệnh viện điều trị trong 12 tháng trước đây hoặc có sử dụng kháng sinh trong vòng 12 tháng trước đây, đã từng thâm phân máu, bệnh mãn tính, có sử dụng thuốc đường tĩnh mạch, hoặc có tiếp xúc gần với người nhiễm MRSA. Trong những trường hợp như vậy, nên chỉ định linezolid 600 mg hoặc Daptomycin 500 mg thay cho Vancomycin.

Nếu bệnh nhân không có yếu tố nguy cơ nhiễm vi khuẩn MRSA, có thể chỉ định những kháng sinh trước đây có hiệu quả với S.aureus. Những kháng sinh này bao gồm: nafcillin, Trimethoprim / Sulfamethoxazole (Sulfatrim 480mg) và Clindamycin. Tuy nhiên, nếu xác định nhiễm MRSA, việc điều trị với vancomycin hoặc những thuốc thế hệ mới nên được tiếp tục cho đến khi kháng sinh đồ cho thấy MRSA vẫn còn nhạy với những kháng sinh này.

Những nhiễm khuẩn nhỏ với MRSA mắc phải cộng đồng, nên chỉ định những kháng sinh ứcchế men penicillinase (như thuốc Oxacillin, Dicloxacillin), Cephalosporins thế hệ thứ 1, Trimethoprim / Sulfamethoxazole (Sulfatrim 480mg), hoặc tetracycline.

 
VI. Kháng sinh điều trị vi khuẩn Gram (-)

Vi khuẩn gram (-) có liên quan đến tỷ lệ lây lan và tử vong do có khả năng sản xuất nội độc tố. Những trường hợp chỉ định điều trị nhiễm khuẩn đe dọa đến tính mạng ở người lớn, việc điều trị vi khuẩn gram (-) được đề nghị sử dụng phối hợp hai kháng sinh có tác dụng tốt trên vi khuẩn gram (-). Sự lựa chọn tốt là sự phối hợp giữa kháng sinh nhóm cephalosporin thế hệ thứ 3 hoặc nhóm betalactam phối hợp với nhóm fluoroquinolone hoặc nhóm aminoglycoside.

Ví dụ: Ceftriaxone và Gentamicin, hoặc cefmetazole và ciprofloxacin.

VII. Nhiễm trùng đường tiểu

Liều đơn hoặc liều điều trị 3 ngày của trimethoprim/sulfamethoxazole (Sulfatrim 480mg) được đề nghị trong viêm bàng quang. Ở những vùng mà trimethoprim/sulfamethoxazole (Sulfatrim 480mg) đề kháng với Escherichia coli hơn 10-20%, thì kháng sinh thay thế là ciprofloxacin. Thời gian điều trị từ 10-14 ngày ở những bệnh nhân nam, trên 65 tuổi, có bệnh tiểu đường, bị tái phát nhiễm trùng tiểu, hoặc có triệu chứng kéo dài hơn 1 tuần.

VIII. Nhiễm khuẩn âm đạo và vùng chậu

Điều trị nhiễm Candida âm đạo với một liều duy nhất fluconazole PO 150 mg. Nhiễm Trichomoniasis và vi khuẩn âm đạo có thể điều trị với một liều duy nhất metronidazole 2g. Cần phân biệt viêm vùng chậu và viêm cổ tử cung, mặc dù chủng vi khuẩn gây bệnh tương tự nhau. Đối với những bệnh nhân bị viêm vùng chậu ngoại trú không nên chỉ định một liều duy nhất một kháng sinh đường uống mà nên chỉ định ceftriaxone IM (Mekozincef 1g) + doxycycline 100mg trong 14 ngày.

 
Nếu như sử dụng kháng sinh nhóm cephalosporin không khả thi thì việc sử dụng kháng sinh nhóm fluoroquinolones (levofloxacin 500 mg PO x1lần/ngày trong 14 ngày hoặc ofloxacin 400 mg PO x 2lần/ngày trong 14 ngày) có hoặc không phối hợp với metronidazol PO 250mg 2 viên x 2lần/ngày trong 14 ngày nên được cân nhắc trong những trường hợp có ít nguy cơ nhiễm lậu cầu. Việc xét nghiệm lậu cầu nên được thực hiện trước khi điều trị, và trong trường hợp xét nghiệm có
lậu cầu thì không nên chỉ định kháng sinh nhóm flouroquinolone.

Những bệnh nhân nghi ngờ viêm cổ tử cung nên được điều trị nhiễm lậu cầu và chlamydia vì 2 vi khuẩn này nhiễm đồng thời và hiện diện trong 40% trường hợp. Chỉ định cefixim PO 200mg 2viên + azithromycin PO 1g một liều duy nhất. Liệu pháp thay thế: azithromycin 2g liều duy nhất có thể điều trị viêm cổ tử cung do lậu cầu và chlamydia, tuy nhiên có thể có tác dụng phụ trên đường tiêu hóa khi sử dụng thuốc này.

IX. Lạm dụng tình dục

Chỉ định cefixime 200mg 2 viên + azithromycin 1g liều duy nhất. Có thể chỉ định promethazine trong những trường hợp nôn ói.

Sử dụng kháng sinh điều trị nhiễm khuẩn sau phẫu thuật

Tác nhân gây bệnh thường là loại liên cầu khuẩn (Streptococcus), trực khuẩn đường ruột (Colibacillus), tụ cầu khuẩn (Staphylococcus), Proteus vulgaris, các loại vi khuẩn yếm khí…

Khi không sử dụng kháng sinh dự phòng hoặc sử dụng kháng sinh dự phòng thất bại thì nhiễm khuẩn sau phẫu thuật cần được chẩn đoán sớm để bắt đầu điều trị. Tiêu chuẩn chung thường được quan tâm đó là đánh giá nhiệt độ và WBC của bệnh nhân. Tuy nhiên, hai tiêu chuẩn này chỉ là những đánh giá cơ bản và ít khi tác động trên một tình trạng sốt độc lập.

 
Đau sau phẫu thuật là dấu hiệu được mong đợi, nhưng dấu hiệu này không chỉ thể hiện một tình trạng nhiễm khuẩn. Triệu chứng sốt trong khoảng nhiệt độ từ 35.5oC đến 40oC thường xuất hiện sớm sau phẫu thuật. Sau phẫu thuật rộng vùng chậu như cắt tử cung sẽ có quá trình tự chữa viêm và sự xâm nhập của vi khuẩn vào vết mổ vùng âm đạo. Tuy nhiên, quá trình này ít khi gây ra sốt hoặc xuất  hiện triệu chứng lâm sàng để có thể sử dụng kháng sinh.

Trong những trường hợp viêm vết mổ vùng âm đạo thường xuất hiện những vết đỏ và phù, có thể rỉ ít mủ, máu và bệnh nhân có thể cảm thấy đau nhẹ hoặc trung bình khi chạm vào. Tuy nhiên, những dấu hiệu và triệu chứng này gia tăng mỗi ngày và nên được điều trị trong khoảng từ 2 đến 5 ngày.

Nếu quá trình viêm diễn tiến lên vùng chậu thì sự đáp ứng của cơ thể với quá trình viêm sẽ rất rõ ràng bằng dấu hiệu sốt ít nhất 38oC và có sự tăng WBC. Khi thăm khám bụng, bệnh nhân cảm thấy đau và khi kiểm tra vùng chậu sẽ có dấu hiệu viêm tấy, mềm và có sự thay đổi điểm apec do có hematoma hoặc apxe. Trong những trường hợp này, bắt buộc phải dẫn lưu. Việc chỉ định siêu âm và chụp CT là cần thiết trong những trường hợp apxe thoát vị vùng chậu hoặc nghi ngờ có nhiều chỗ apxe hoặc dẫn lưu thất bại và phải điều trị.

Mặc dù dấu hiệu sốt trên 38oC là dấu hiệu nhạy và đáng tin cậy của tình trạng nhiễm trùng, tuy nhiên nếu không có sốt thì cũng không thể loại trừ có tình trạng nhiễm khuẩn. Thuốc hạ sốt thường được sử dụng nên làm mất dấu hiệu của sốt. Thường meperidine và morphine được sử dụng trong vòng 24 đến 48 giờ cho đến khi xác định có hoặc không có dấu hiệu sốt.

Dấu hiệu sốt dưới 38oC không cần phải điều trị ngay, nhưng cần phải kiểm tra (ví dụ có thể ngưng thuốc hạ sốt, thực hiện các xét nghiệm, thăm khám như đánh giá tình trạng phổi, đường tiểu, vết thương, phản ứng bụng, kiểm tra vùng chậu, dịch tiết âm đạo).

 
Theo thống kê, dấu hiệu nhiệt độ trên 38oC đều thể hiện tình trạng nhiễm khuẩn. Tình trạng xẹp phổi, nhiễm trùng đường tiểu, nhiễm khuẩn vết thương ít khi là nguyên nhân gây sốt trên 38oC trong vòng 48 giờ đầu. Viêm  phổi, viêm bể thận và thủng ruột thường gây tăng nhiệt độ rất sớm và nhanh nên cần phải được xem xét sớm. Những bệnh nhân có tình trạng sốt dưới 38oC và có xuất hiện những nốt đỏ thì điều đó dự báo cho nhân viên y tế về tình trạng nhiễm khuẩn vùng chậu gây viêm tắc tĩnh mạch. Thử độ nhạy của vi khuẩn rất khó để biết được nhưng cũng sẽ giúp ích rất nhiều trong trường hợp những triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân trở nên xấu hơn nhanh chóng. Nên xét nghiệm máu và nước tiểu trong những trường hợp bệnh nhân sốt trên 38.5oC. Nếu như vết mổ đã đóng mài thì nên sử dụng betadine để sát trùng vết thương.

I. Lựa chọn kháng sinh điều trị:

Khi nhiễm trùng vùng chậu được chẩn đoán, thì nên sử dụng kháng sinh. Việc chỉ định kháng sinh ban đầu thường theo kinh nghiệm và bao trùm nhiều loại vi khuẩn do những nhiễm khuẩn vùng chậu có tác nhân do nhiều loại vi khuẩn gây ra. Tuy nhiên một vài yếu tố có thể giúp lựa chọn kháng sinh điều trị thích hợp. Sử dụng kháng sinh dự phòng là kháng sinh nhóm cephalosporin thường giúp cho nhân viên y tế hướng đến nguyên nhân gây bệnh là enterococci.

Những kháng sinh thuộc nhóm penicillin có phổ kháng khuẩn rộng như piperacillin-tazobactam và ampicillin-sulbactam nên được cân nhắc khi chỉ định. Những kháng sinh truyền thống thuộc tiêu chuẩn vàng như clindamycin và gentamicin không đưa ra những bằng chứng có hiệu quả hơn hoặc kém hiệu quả hơn trong những cuộc thử nghiệm so sánh.

Carbapenem, imipenem, meropenem đã được nghiên cứu trong điều trị nhiễm khuẩn vùng chậu và cho những kết quả tốt. Ertapenem sử dụng liều tiêm tĩnh mạch một lần một ngày như carbapenem đã được chấp nhận trong điều trị nhiễm khuẩn vùng chậu. Tuy nhiên việc sử dụng vẫn còn hạn chế vì giá thành cao. Cefoxitin tác dụng tốt trên vi khuẩn kỵ khí và vi khuẩn gram + hiếu khí, nhưng kém trên chủng vi khuẩn enterobacter, và vi khuẩn Pseudomonas.

Ceftriaxon tác dụng kém trên vi khuẩn kỵ khí và ít được lựa chọn trong những trường hợp nhiễm khuẩn vùng chậu, nhất là ở vùng mô mềm do nhiễm khuẩn vùng này thường do nhiều loại vi khuẩn gây ra. Việc sử dụng thường xuyên một số kháng sinh trên những chủng vi khuẩn kể trên làm tăng tỷ lệ đề kháng đối với những kháng sinh mới phổ rộng như piperacillin-tazobactam hoặc imipenem. Những thuốc thay thế như clindamycin, gentamicin hoặc kháng sinh thuộc nhóm cephalosporins như cefoxitin, cefotetan đã cho thấy là nguyên nhân tăng tỷ lệ đề kháng clostridium difficile và đa đề kháng enterococci.

Thông thường, việc sử dụng liệu pháp điều trị bằng kháng sinh trong phụ khoa thường chỉ định trong thời gian ngắn và không cần sử dụng thêm kháng sinh đường uống sau khi xuất viện. Khi điều trị bằng kháng sinh, bệnh nhân được theo dõi WBC, CRP để xem xét sự cải thiện tình trạng lâm sàng. Điều quan trọng là phải chắc chắn bệnh nhân không sốt trong thời gian ít nhất là 24 đến 48 giờ. Hầu hết các kháng sinh đều làm giảm tình trạng sốt thường xuất hiện trong vòng 48 giờ đầu. Nếu bệnh nhân không hết cơn sốt trong khoảng thời gian này, thì liệu pháp đang sử dụng được xem xét lý do thất bại.

Có rất ít nguyên nhân tiếp tục duy trì sử dụng kháng sinh khi bệnh nhân vẫn sốt trong vòng 2 đến 3 ngày. Nguyên nhân của việc điều trị thất bại rất đa dạng bao gồm kháng sinh không bao trùm hết các chủng vi khuẩn, apxe, viêm tắc tĩnh mạch vùng chậu do nhiễm  khuẩn, sự tiến triển của một nhiễm khuẩn ở một vị trí khác.

Hầu hết bệnh nhân đều không được thử độ nhạy của vi khuẩn ở vết mổ nên việc điều  trị bằng kháng sinh chủ yếu theo kinh nghiệm do vậy có thể xảy ra trường hợp sử  dụng kháng sinh không đủ mạnh để điều trị. Mặc dù chưa có một hướng dẫn cụ thể nhưng những bệnh nhân đang điều trị kháng sinh clindamycin, gentamicin nên được chỉ định thêm ampicillin để điều trị  enterococci. Những bệnh nhân được chỉ định cefoxitin hoặc kháng sinh khác thuộc nhóm cephalosporin nên chuyển sang những kháng sinh có phổ kháng khuẩn trên enterococci và kháng vi khuẩn gram – như piperacillin-tazobactam (Tazocin). Imipenem và meropenem có tác dụng tương tự nhưng hai thuốc này tác dụng khá yếu trên vùng nhiễm khuẩn chủng enterococci. Những bệnh nhân được chỉ định ticarcillin-acid clavulanic thường được chuyển sang  piperacillin-tazobactam hoặc ampicillin-sulbactam để điều trị enterococci.

Ampicillin-sulbactam  tác dụng kém trên vi khuẩn gram -, trong khi đó kháng sinh thuộc nhóm aminoglycosid hoặc aztreonam có tác dụng tốt trên chủng vi khuẩn này. Nếu như hầu hết các thuốc như piperacillin-tazobactam khi sử dụng theo kinh nghiệm không hiệu quả thì nên cân nhắc nguyên nhân gây sốt và chỉ định kháng sinh phù hợp. Piperacillin-tazobactam đề kháng với nhóm vi khuẩn gram -, do vậy nên sử dụng kháng sinh nhóm aminoglycosid trên nhóm vi khuẩn này. Kháng sinh imipenem, meropenem có phổ kháng khuẩn không phủ hết các chủng enterococci. Tuy nhiên, những thuốc này có phổ kháng khuẩn rộng nên thường sử dụng là kháng sinh ban đầu trong những trường hợp apxe, hematoma nhiễm khuẩn. Việc kiểm tra vùng chậu bằng XQ nên được đề nghị. Mặc dù, tình trạng bệnh nhân được cải thiện nhưng nhiệt độ bệnh nhân không giảm thì nên cân nhắc khả năng bệnh nhân bị viêm tắt tĩnh mạch vùng chậu do nhiễm khuẩn.

Mặc  dù, những cách điều trị đã được đề cập, ofloxaxin (có thể thay thế bằng levofloxacin) không tiêu diệt lactobacilli ở âm đạo và ít có ảnh hưởng lên sự tiến triển của hệ quần thể vi khuẩn ở âm đạo cũng như sự nhiễm nấm trở lại. Khi liệu pháp điều trị theo kinh nghiệm thất bại, thì nên nghĩ tới việc dẫn lưu apxe thất bại hay đang có một vị trí nhiễm khuẩn khác. Nếu nghi ngờ hematoma, nhiễm khuẩn hoặc bằng chứng XQ về abces thì cần phải được dẫn lưu ngay lập tức. Dẫn lưu dưới qua thông qua siêu âm hoặc CT đưa nhiều kết quả tốt. Tuy nhiên, trên những bệnh nhân nhiễm khuẩn và không ổn định, nếu nghi ngờ apxe thì việc cần  thiết là thăm khám kỹ.

Nếu bệnh nhân có dấu hiệu phục hồi sau nhiểm khuẩn vùng chậu nhưng có triệu chứng sốt trở lại trong vòng 3 đến 4 ngày sau khi phẫu thuật thì nên xem xét lại vết thương ở bụng và có thể mổ lại nếu nghi ngờ có apxe. Những vị trí khác cũng nên xem xét kỹ có mối liên quan đến tình trạng sốt hiện tại hoặc dai dẳng, ví dụ vị trí tiêm tĩnh mạch, các nhiễm trùng từ phổi hoặc đường tiểu cũng nên được đánh giá và nên được điều trị nếu phát hiện đúng. Tuy nhiên, chứng xẹp phổi và viêm bàng quang không phải là nguyên nhân gây sốt dai dẳng và nên tiếp tục xem xét các  nguyên nhân chính gây ra sốt.
 

7 nguyên tắc sử dụng kháng sinh

Thuốc cần phải sử dụng an toàn và hiệu qủa. Riêng với kháng sinh là thuốc trị bệnh nhiễm khuẩn cần phải đặc biệt lưu ý. Bởi vì nếu sử dụng kháng sinh không hợp lý sẽ đưa đến tác hại rất lớn. Thuốc nói chung cần phải sử dụng an toàn và hiệu qủa. Riêng với kháng sinh là thuốc trị bệnh nhiễm khuẩn cần phải đặc biệt lưu ý. Bởi vì nếu sử dụng kháng sinh không hợp lý sẽ đưa đến tác hại rất lớn. Thứ nhất chính thuốc kháng sinh sẽ gây tai biến cho cơ thể ta như dị ứng, nhiễm độc các cơ quan, loạn khuẩn đường ruột làm tiêu chảy đôi khi rất trầm trọng. Tác hại thứ hai nghiêm trong hơn nhiều là nếu sử dụng thuốc kháng sinh bừa bãi sẽ gây hiện tượng vi khuẩn đề kháng lại kháng sinh.

Hiện nay các nhà y học rất lo lắng vì thuốc kháng sinh trước đây tỏ ra rất tốt rất hiệu quả trong điều trị thì nay đã bị nhiều loại vi khuẩn đề kháng.

1.Chỉ sử dụng kháng sinh khi thật sự bị bệnh nhiễm khuẩn. Chỉ có thầy thuốc điều trị dựa vào kinh nghiệm chữa bệnh, dựa vào xét nghiệm, làm kháng sinh đồ mới xáx định được có nhiễm khuẩn hay không?

2.Phải chọn đúng loại kháng sinh Nếu chọn dùng kháng sinh không đúng loại bệnh thuốc sẽ không có hiệu quả

3.Phải có sự hiểu biết về thể trạng người bệnh. Ðặc biệt đối với các phụ nữ có thai, người già, người bị suy gan, suy thận, chỉ có thầy thuốc điều trị mới có đủ thẩm quyền cho sử dụng kháng sinh

4.Phải dùng kháng sinh đúng liều đúng cách.

5.Phải dùng kháng sinh đủ thời gian. Tùy theo loại bệnh và tình trạng bệnh thời gian dùng kháng sinh có khi dài khi ngắn nhưng thông thường là không dưới 5 ngày

6.Chỉ phối hợp nhiều loại kháng sinh khi thật cần thiết

7.Phòng ngừa bằng thuốc kháng sinh phải thật hợp lý. Chỉ có những trường hợp đặc biệt thầy thuốc mới cho dùng thuốc kháng sinh gọi là phòng ngừa. Thí dụ, dùng kháng sinh phòng ngừa trong phẫu thuật do nguy cơ nhiễm khuẩn hậu phẫu. Hoặc người bị viêm nội mạc tim đã chữa khỏi vẫn phải dùng kháng sinh để ngừa tái nhiễm

Bảo đảm được những điều trình bày ở trên cho thấy sử dụng kháng sinh hợp lý là vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải có kiến thức và trình độ chuyên môn. Do vậy, chỉ nên sử dụng thuốc kháng sinh theo sự chỉ định của bác sĩ và theo sự hướng dẫn của dược sĩ

Tài liệu tham khảo:

1.Đặng Thị Thuận Thảo. Sử dụng kháng sinh cập nhật 2010.

2.Đặng Thị Thuận Thảo. Sử dụng kháng sinh trong sản khoa 2010.

3.Đặng Thị Thuận Thảo. Sử dụng kháng sinh sau phẩu thuật 2010.

4.Cảnh báo của FDA về dùng kháng sinh 2010

5.7 nguyên tắc sử dụng kháng sinh. http://www.tanbachtung.com/

6.Sử dụng kháng sinh hợp lý. Sức khỏe và Đời sống

7.Katherine M Hiller, MD, James Li, MD, Antibiotics - A Review of ED Use, Apr 14, 2010

 

Ngày 08/01/2011
Ths.Bs.Huỳnh Hồng Quang  
    Các nội dung khác »

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích