Home TRANG CHỦ Thứ 6, ngày 19/04/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Finance & Retail Chuyên đề
Dịch tễ học
Côn trùng học
Nghiên cứu lâm sàng & điều trị
Ký sinh trùng sốt rét
Ký sinh trùng
Sinh học phân tử
Sán lá gan
Sốt xuất huyết
Bệnh do véc tơ truyền
Vi khuẩn & Vi rút
Sán
Giun
Nấm-Đơn bào
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 2 4 6 0 7 6 4
Số người đang truy cập
3 5 6
 Chuyên đề Ký sinh trùng sốt rét
Một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến đánh giá sự nhạy cảm hoặc kháng thuốc của ký sinh trùng sốt rét

Nhóm nghiên cứu về quá trình làm sạch ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) trong bệnh nhân đã đưa ra dữ liệu rất ý nghĩa, có giá trị tham khảo về quá trình làm sạch ký sinh trùng và những hiểu biết về các tác nhân ảnh hưởng đến tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét bị loại trừ khỏi cơ thể bệnh nhân.

Những hiểu biết về các yếu tố làm sạch ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc

Một trong những chỉ thị tốt nhất khẳng định có hiện tượng kháng thuốc artesunat là tình trạngchậm làmgiảm số lượng ký sinh trùng sốt rét trong máu bệnh nhân sau khi điều trị. Tuy nhiên, còn có một số yếu tố ngoài hiện tượng kháng thuốc có thể tác động đến tỷ lệ sạch ký sinh trùng, như các mức miễn dịch, mật độ ký sinh trùng ban đầu, liều lượng thuốc uống vào và hiệu quả của thuốc kết hợp. Ở một mức độ nào đó, chúng ta chưa hiểu biết rõ ràng về các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ làm sạch ký sinh trùng này.

 

Trong một nghiên cứu mới đây đăng trên tạp chí Malaria Journal, nhóm nghiên cứu quá trình làm sạch ký sinh trùng của Mạng lưới Nghiên cứu kháng thuốc sốt rét toàn cầu (Worldwide Antimalarial Resistance Network_WWARN) đã kết hợp dữ liệu từ 24 nghiên cứu được thực hiện trong hơn 18 năm. Các nghiên cứu này thu thập gần 7.000 bệnh nhân, những bệnh nhân này được đếm ký sinh trùng thường xuyên trong các ngày đầu điều trị. Từ lượng lớn dữ liệu này cho phép nhóm nghiên cứu so sánh sự ảnh hưởng của các đặc điểm bệnh nhân và thiết kế nghiên cứu đến tỷ lệ làm sạch ký sinh trùng và đánh giá yếu tố địa lý, sinh lý cũng như các yếu tố bên ngoài có thể tác động lên tỷ lệ làm sạch ký sinh trùng.

Giáo sư Philippe Guérin, giám đốc WWARN cho biết có nhiều yếu tố hơn là chỉ một yếu tố liên quan đến kháng thuốc có thể thay đổi hoặc chậm làm sạch ký sinh trùng sau khi điều trị, tuy nhiên từ trước đến nay vẫn chưa có một cuộc khảo sát tỉ mỉ về ảnh hưởng của các tác nhân này. Bằng việc phân tích các dữ liệu gộp (meta-analysis) từ nhiều nguồn tại các vùng dịch tễ khác nhau, các nhà khoa học có thể rút ra thông tin quy chiếu chuẩn về các yếu tố có thể ảnh hưởng lên tỷ lệ làm sạch ký sinh trùng. Ngày nay, thông tin chuẩn này có thể được sử dụng để hỗ trợ xác định sớm hiện tượng kháng artemisinin tại các quốc gia có sốt rét lưu hành, và đưa ra thiết kế về các nghiên cứu trong tương lai.

Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng sự khác biệt trong các đánh giá quá trình làm sạch ký sinh trùng thường xảy ra vì những khác nhau về thiết kế nghiên cứu. Những khác nhau này gồm sự không liên tục về thu thập mẫu, gồm những bệnh nhân có mật độ ký sinh trùng ban đầu trong máu quá thấp nên không có đủ các điểm dữ liệu để đánh giá chính xác tỷ lệ làm sạch ký sinh trùng. Liều điều trị, tuổi bệnh nhân và khả năng miễn dịch của bệnh nhân cũng được xem như là các yếu tố ảnh hưởng lên quá trình làm sạch ký sinh trùng (cân nặng, tình trạng lách?).

Tiến sĩ Rick Fairhurst, trưởng bộ phận Miễn dịch và Sinh bệnh học sốt rét, Viện các Bệnh truyền nhiễm và Dị ứng của Anh nói rằng tỷ lệ sạch ký sinh trùng được xem như là thước đo tin cậy nhất cho hiệu quả điều trị sốt rét. Những dữ liệu thu thập này cung cấp thông tin rất quan trọng về các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ làm sạch ký sinh trùng và như thế mang đến một nguồn lực rất cần thiết để các nhà nghiên cứu lâm sàng so sánh các đánh giá tỷ lệ sạch ký sinh trùng trong tương lai với dữ liệu trước đó nhằm đảm bảo tính thống nhất và khẳng định chính xác hơn sự tồn tại của hiện tượng kháng thuốc sốt rét.

 

Tiến sĩ Kasis Stepniewska, trưởng bộ phận thống kê của WWARN nói rằng những điểm nổi bật của nghiên cứu này là tính quan trọng của việc thu được các dữ liệu làm sạch ký sinh trùng được tiêu chuẩn hóa tại một địa điểm. Chúng tôi sẽ xây dựng tất cả thông tin tóm tắt để đưa lên website của WWARN làm nguồn cho các nhà nghiên cứu sử dụng để tham chiếu so sánh với các dữ liệu về quá trình làm sạch ký sinh trùng từ nghiên cứu của họ.

Các nhà khoa học muốn xây dựng thông tin chuẩn này và khuyến khích các nhà nghiên cứu sử dụng thống kê quá trình làm sạch ký sinh trùng của chúng tôi và chia sẽ các dữ liệu đánh giá quá trình làm sạch ký sinh từ nghiên cứu của họ với cộng đồng, từ đó sẽ đưa ra những kết quả tóm tắt nghiên cứu có giá trị so sánh mà tất cả các nhà nghiên cứu có thể sử dụng. Dựa vào thông tin này, các nhà nghiên cứu có thể kiểm soát ảnh hưởng của các thuốc kết hợp, thiết kế nghiên cứu hay đặc điểm bệnh nhân và như thế họ có thể xác định đúng hiện tượng kháng artemisinin và những biến đổi nhạy kháng theo thời gian của nó. Thông kê về số liệu làm sạch ký sinh trùng sốt rét của WWARN cung cấp cho các nhà nghiên cứu đang thực hiện các chương trình phòng chống sốt rét một công cụ rất giá trị để phân tích chuẩn hóa số lượng ký sinh trùng được xác định thường xuyên trong các ngày đầu điều trị. Công cụ thống kê này cung cấp từng báo cáo tự động cho mỗi bệnh nhân và chuyển đổi các dữ liệu tính được thành một đánh giá riêng về quá trình làm sạch ký sinh trùng ở mỗi bệnh nhân, về thời gian bán hủy ký sinh trùng. Công cụ này được sử dụng miễn phí trên website của WWARN.

Thống kê đánh giá ước tính quá trình làm sạch KSTSR (PCE)

Phương pháp tin cậy và nhất quán để đánh giá tỷ lệ làm sạch ký sinh trùng khỏi bệnh nhân - một công cụ tối quan trọng để đánh giá các biểu hiện trong thay đổi hiệu quả thuốc điều trị sốt rét. Tỷ lệ sạch KSTSR - tỷ lệ mật độ ký sinh trùng sốt rét giảm dần trong máu bệnh nhân sau điều trị - có thể được sử dụng để đánh giá đáp ứng của cơ thể bệnh nhân đối với quá trình điều trị với các thuốc dẫn suất từ artemisinin, để thẩm định các thuốc điều trị sốt rét mới và đánh giá đáp ứng điều trị của bệnh nhân bị sốt rét ác tính.

Thống kê đánh giá quá trình làm sạch KSTSR của mạng lưới WWARN về chỉ số PCE là một phương pháp đồng nhất mô tả tỷ lệ làm sạch ký sinh trùng. Đây là một công cụ nghiên cứu quan trọng để đánh giá các dữ liệu hiệu quả điều trị của thuốc sốt rét đối với các dấu hiệu thay đổi hiệu quả điều trị, một chỉ thị đầu tiên nói lên kháng thuốc sốt rét.

  

PCE làm việc như thế nào?

-Cung cấp một phương pháp chính xác, tin cậy và nhất quán để đánh giá quá trình làm sạch ký sinh trùng dựa trên khoản tuyến tính của đường cong quan hệ giữa logarit số lượng ký sinh trùng và thời gian;

-Sử dụng một giải pháp tiêu chuẩn tạo thuận lợi cho việc giám sát thường xuyên hiệu quả điều trị của thuốc phối hợp ACTs và cho phép thực hiện các so sánh ở mọi lúc mọi nơi;

-Cung cấp thông tin có khả năng phát hiện những thay đổi đầu tiên về tính nhạy của ký sinh trùng P. falciparum đối với artemisinin và hỗ trợ các đối phó kịp thời về hướng dẫn điều trị khi được yêu cầu.

Các nhà khoa học của WWARN khuyến cáo những đánh giá sử dụng công cụ PCE cũng nên kết hợp chặt chẽ với công tác đảm bảo chất lượng kính hiển vi định kỳ hay các hướng dẫn kiểm soát chất lượng để thẩm tra các kết quả thu được là đáng tin cậy.

Định lượng ký sinh trùng và lợi ích chia sẻ đối với PCE

Yêu cầu ít nhất về số lần lấy mẫu cho tính toán định lượng ký sinh trùng: 0 (0-2), 6 (4-8), 12 (10-14), 24 (22-26), 36 (34-36) và 48 (46-50) giờ, sau đó số lượng ký sinh trùng cần được đo ít nhất một lần trong 24 giờ cho đến khi bệnh nhân sạch ký sinh trùng sốt rét. Số liệu nên được cung cấp ở dạng file CSV. Mở chương trình và file nhập liệu sẵn có của PCE để tải file mẫu. 95% bộ dữ liệu được phân tích bằng công cụ PCE đã được chia sẽ thông qua WWARN. Vậy tại sao bạn không chia sẽ dữ liệu của mình?

Chia sẽ dữ liệu với WWARN cho phép đưa ra các đánh giá tốt hơn về dữ liệu của bạn từ việc so sánh với tất cả các dữ liệu gửi cho chúng tôi. Bạn có thể đóng góp dữ liệu của mình cho dự án WWARN bằng việc sử dụng cùng tên đăng nhập và mật khẩu. Nếu bạn muốn so sánh dữ liệu của mình với các bản tóm tắt trong các bài báo đã được thẩm định đang có, hãy liên hệ với địa chỉ mail

Sự biến đổi gen nhanh chóng giúp KSTSR ẩn trong cơ thể người

Một nghiên cứu về cách ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) phát triển trong các tế bào hồng cầu của người cho biết KSTSR có thể thay đổi nhanh chóng các protein trên bề mặt để trốn khỏi hệ thống miễn dịch. Kết quả nghiên cứu này đã loại bỏ suy nghĩ trước đây về vòng đời của ký sinh trùng P. falciparum, điều đó có thể giải thích tại sao rất nhiều nỗ lực để tạo ra một loại vaccine có hiệu quả đã thất bại và làm thế nào các KSTSR có thể tồn tại trong cơ thể con người trong thời gian dài như vậy.

 

Trong nghiên cứu về P. falciparum được nuôi giữ trong máu người hơn một năm tại phòng thí nghiệm nuôi cấy ký sinh trùng sốt rét, với hệ gen đầy đủ trình tự thường xuyên. Điều này giúp các nhà khoa học có hình ảnh của bộ gen P. falciparum ở nhiều thời điểm, cho phép họ theo dõi sự tiến hóa của bộ gen diễn ra trong phòng thí nghiệm. Nghiên cứu phát hiện thấy có khoảng 60 gen kiểm soát các protein bề mặt của các tế bào hồng cầu người bị nhiễm bệnh, được gọi là gene var, chúng trao đổi thông tin di truyền thường xuyên, cứ 2 ngày tạo ra khoảng 1 triệu các protein bề mặt mới và không thể nhận ra ở người bị nhiễm bệnh sốt rét.

Một nhà nghiên cứu của Viện Wellcome Trust Sanger giải thích cho việc sử dụng toàn bộ trình tự bộ gen và số lượng của các mẫu thu thập được đã cho ra bức tranh chi tiết về cách thức các gen var thay đổi liên tục trong các tế bào hồng cầu.

 

Kết quả cho thấy, lần đầu tiên các quá trình trao đổi thông tin di truyền của KSTSR, gọi là tái tổ hợp, không xảy ra bên trong muỗi như hiểu biết trước đây, mà giai đoạn sinh sản vô tính của vòng đời KSTSR xảy ra bên trong tế bào hồng cầu người.

Điều này có thể giải thích tại sao người mang KST lạnh mà không biểu hiện triệu chứng của bệnh sốt rét, một vấn đề rất quan trọng giúp có thể loại trừ bệnh sốt rét.

Để hiểu biết đầy đủ các cơ chế thúc đẩy sự tái tổ hợp các gen var của P. falciparum, các nhà khoa học tính toán các tỷ lệ tái tổ hợp gen var sẽ xảy ra. Họ phát hiện ra rằng sự tái tổ hợp gen var diễn ra trong khoảng 0,2% của KSTSR sau mỗi chu kỳ sống 48 giờ trong các tế bào hồng cầu. Với khoảng 1 tỷ KSTSR bên trong một người bệnh sốt rét điển hình, có tiềm năng rất lớn cho tái tổ hợp gen var.

 

Giáo sư Dominic Kwiatkowski, người đứng đầu Chương trình sốt rét tại Viện Wellcome Trust Sanger cho biết trên thế giới hiện nay có khoảng 200 triệu người nhiễm KSTSR, thì các KSTSR này liên tục tạo ra hàng triệu biến thể kháng nguyên, điều đó giải thích tại sao cuộc chiến chống bệnh sốt rét của chúng ta rất khó khăn. Nghiên cứu này là một minh chứng mới về cách phân tích trình tự gen làm phong phú thêm sự hiểu biết của chúng ta về mặt sinh học của bệnh sốt rét. Qua sự hiểu biết về thủ thuật di truyền mà KST sử dụng để trốn tránh hệ thống miễn dịch của con người, chúng ta có thể tiến tới nghiên cứu loại bỏ căn bệnh chết người này.

Nguy cơ kháng thuốc lan sang Ấn Độ, dẫn đến khủng hoảng y tế toàn cầu

Sốt rét kháng thuốc đang lưu hành khắp Myanmar và đã đến biên giới Ấn Độ, các thuốc sốt rét thông thường có nguy cơ không còn hiệu quả trong cuộc chiến của toàn cầu chống lại bệnh sốt rét. Các bác sĩ đang lo ngại rằng nếu không được giải quyết, sốt rét kháng thuốc có thể lây lan ra khắp Ấn Độ và châu Phi (nơi chiếm 90% các trường hợp mắc bệnh sốt rét trên thế giới), dẫn đến một cuộc khủng hoảng y tế nghiêm trọng.

 

Trong một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Lancet, các nhà nghiên cứu phát hiện ra kháng artemisinin sau lần đầu tiên được ghi nhận tại Campuchia đã lan rộng đến miền nam Myanmar. Myanmar là cửa ngõ cho kháng thuốc lây lan sang phần còn lại của thế giới. Vì vậy, nơi đây được coi như tuyến đầu trong cuộc chiến chống lại kháng artemisinin. Hiện tại, các gen đột biến Kelch hay K13 gây kháng thuốc của ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) đã được tìm thấy trong máu của những người bị bệnh sốt rét ở phía bắc và phía đông của Myanmar. Các gen đột biến cũng được phát hiện ở khoảng 50% số mẫu thu thập từ những người sống gần biên giới Ấn Độ, chỉ cách biên giới 25 km.

KSTSR kháng thuốc trong những năm 1960 có nguồn gốc từ Đông Nam Á và từ đó lây lan qua Myanmar đến Ấn Độ và sau đó với phần còn lại của thế giới, đã góp phần giết chết hàng triệu người. Các nghiên cứu mới đây cho thấy lịch sử đang lặp lại với ký sinh trùng kháng thuốc artemisinin. Chúng ta đang phải đối mặt với các mối đe dọa sắp xảy ra do kháng thuốc lan rộng vào Ấn Độ, với hàng ngàn sinh mạng bị nguy hiểm. Do đó, rất cần một nỗ lực quốc tế mạnh mẽ hơn để giải quyết vấn đề này trong khu vực biên giới.

Nghiên cứu xác định nguyên nhân sốt rét kháng thuốc

Sốt rét là bệnh ký sinh trùng lây truyền qua trung gian là muỗi Anopheles. Bệnh ảnh hưởng đến hàng triệu người trên toàn thế giới và nhiều trường hợp bệnh SRAT và tử vong.Mặc dù tử vong do sốt rét trên toàn thế giới đã giảm 30% từ khi áp dụng phương pháp điều trị thuốc phối hợp có artemisinin trong thành phần (ACTs) vào cuối thập niên 90. Nhưng thành tựu này đang bị đe dọa bởi sự gia tăng sức đề kháng của ký sinh trùng đối với các thành phần chính của artemisinin (ACTs) ở Đông Nam Á. Hiện tại, chưa có liệu pháp điều trị sẵn sàng thay thế cho ACTs nên kháng thuốc sẽ có nguy cơ lan truyền sang các khu vực khác trên thế giới.

 

Các nhà khoa học khắp nơi trên thế giới đã và đang khẩn trương nghiên cứu vấn đề này. Kết quả của những nghiên cứu sẽ cung cấp một cái nhìn sâu sắc, rõ ràng hơn về gia tăng sốt rét kháng thuốc và khả năng loại trừ trước khi kháng thuốc lây lan, xây dựng chiến lược mới về sử dụng thuốc sốt rét tốt hơn.

Nghiên cứu của Trung tâm Y tế Đại học Columbia

Tiến sĩ Fidock cùng nghiên cứu với các nhà khoa học tại Viện Pasteur ở Paris và Campuchia, Đại học Toulouse III, Sangamo Biosciences Inc., và Viện Sức khỏe Quốc gia Mỹ. Kết quả cho thấy rõ ràng rằng một đột biến trên gen K13 của P. falciparum trực tiếp gây ra sự kháng thuốc, cho biết sức đề kháng của ký sinh trùng có thể phát sinh thông qua đột biến duy nhất trong một gen và xảy ra bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào. Đây là điều khác so với các nghiên cứu về kháng thuốc trước đây.

Tuy nhiên, đột biến gen K13 tạo ra một sức đề kháng tương đối yếu. Một nghiên cứu liên quan được công bố trên tạp chí Science, tìm thấy đột biến K13 cho phép các ký sinh trùng ẩn trốn trong các tế bào hồng cầu trong một giai đoạn phát triển, ít bị tấn công bởi thuốc artemisinin.

Điều này cho phép ký sinh trùng tạm thời sống sót sau điều trị, nhưng nó sẽ không đủ cho ACTs thất bại ở khắp châu Phi, đặc biệt là các loại thuốc thành phần vẫn có hiệu lực cao. Nhưng nó có thể là nền tảng cho ký sinh trùng phát triển mạnh mẽ hơn khả năng đề kháng với thuốc. Vì vậy, phải hết sức cẩn thận trong việc xem xét khả năng tăng sức đề kháng của ký sinh trùng. Báo cáo thực địa cho thấy rằng không phải tất cả các đột biến gen K13 đều có khả năng gây ra sức đề kháng và các hệ thống gen được phát triển bởi Tiến sĩ Fidock để nghiên cứu K13, dựa trên các phương pháp sắp xếp lại DNA đang được sử dụng trong các nghiên cứu gen của con người, sẽ rất quan trọng trong việc xác định các điểm nóng thực sự của kháng thuốc.

Nghiên cứu của Đại học công nghệ Nanyang

Nhóm nghiên cứu gồm các nhà khoa học đến từ 11 quốc gia, họ đã phân tích 1.000 mẫu máu lấy từ bệnh nhân sốt rét tại các nước khu vực tiểu vùng Mê Kông (Campuchia, Thái Lan, Việt Nam, Lào và Myanmar), là các nơi vẫn còn phổ biến các chủng ký sinh trùng sốt rét khác nhau. Họ đã phát hiện ra điều đáng ngạc nhiên là hầu như tất cả các ký sinh trùng sốt rét ở Campuchia và các vùng lân cận đã bị biến đổi và phát triển khả năng kháng artemisinin, loại thuốc chính được sử dụng trong liệu pháp kết hợp để điều trị bệnh sốt rét. Đây là một khác biệt rõ rệt khi so sánh với ký sinh trùng sốt rét từ Congo và các nước châu Phi khác, chỉ 1-3% ký sinh trùng sốt rét đã có đột biến và kháng thuốc chưa được phát hiện trong phần còn lại.

Các nhà khoa học đã tìm thấy 2 phương cách chính để KSTSR trở nên kháng artemisinin:

1. KSTSR tăng năng lực sửa chữa những hư tổn gây ra do thuốc sốt rét à tạo ra một cơ hội sống sót cao hơn cho KSTSR;

2. Vì thuốc diệt ký sinh trùng có hiệu quả hơn ở giai đoạn sau của sự phát triển, nên các ký sinh trùng làm chậm lại sự phát triển của nó để có thể tồn tại lâu hơn ở các giai đoạn sớm.

 

Với phát hiện mới này, các nhà khoa học sẽ có thể xây dựng chiến lược điều trị mới, đặc biệt là khi quyết định loại thuốc phối hợp điều trị với artemisinin để điều trị bệnh nhân tốt hơn.

Tình cờ nghiên cứu vaccine sốt rét đem lại hy vọng cho điều trị ung thư

Mới đây, các nhà khoa học Đan Mạch từ Đại học Copenhagen và Đại học British Columbia đã tình cờ tìm ra một phương pháp có thể có ích đối với điều trị ung thư bằng một chất glycosaminoglycan liên kết với protein sốt rét trong khi đang nghiên cứu về vaccine phòng bệnh sốt rét cho các phụ nữ mang thai. Liệu pháp này có thể sẽ được thử nghiệm trên người sớm nhất trong vòng 4 năm tới. Đây là phát hiện mới sau những nỗ lực phối hợp làm việc của các nhóm nghiên cứu ung thư và nhà nghiên cứu sốt rét.

Trong phòng thí nghiệm, các nhà khoa học đã tạo ra những protein mà các ký sinh trùng sốt rét sử dụng để chui vào nhau thai và sau đó đã tiêm vào một độc tố. Sự kết hợp của protein sốt rét và độc tố nhằm tìm ra các tế bào ung thư, sau khi được hấp thụ, độc tố phát tán bên trong nhau thai và sẽ tiêu diệt tế bào ung thư. Quá trình này đã được thử nghiệm ​​trong nuôi cấy tế bào và ở những con chuột bị ung thư. Phát hiện được mô tả tóm tắt qua bài Hướng đến mục tiêu điều trị ung thư ở người bằng một glycosaminoglycan liên kết với protein sốt rét ấn bản trên tạp chí khoa học Cancer Cell.

 

Ký sinh trùng sốt rét P. falciparum trong tế bào hồng cầu trình diện các protein sốt rétVAR2CSA. VAR2CSA liên kết với một loại chondroitin sulfate nhất định diễn ra đặc biệt trong nhau thai. Việc thay đổi chondroitin sulfate giống nhau diễn ra ở hầu hết tế bào ác tính và có thể hướng đến việc tái tổ hợp VAR2CSA (rVAR2). Trong các khối u, các chuỗi chondroitin sulfate hệt như trong nhau thai được liên kết với các proteoglycan liên quan đến ung thư bao gồm CD44 và CSPG4. Các protein rVAR2 khoanh vùng đến các khối u trong cơ thể và kết hợp với độc tố bạch cầu hoặc với hợp chất hemiasterlin làm ngăn chặn sự tăng trưởng và di căn của tế bào khối u trong cơ thể. Dữ liệu nghiên cứu chứng minh làm thế nào để một protein ký sinh trùng tinh chế có thể được khai thác những thay đổi của glycosaminoglycan liên kết ác tính, phổ biến, nhưng phức tạp. Điểm đáng chú ý về công trình và tình cờ này là khi phát hiện trong nhau thai và tế bào ung thư đều tạo ra o­ncofetal chondroitin sulfate như nhau, các o­ncofetal chondroitin sulfate được tìm thấy ở proteoglycan trong tế bào ung thư. Protein tái tổ hợp VAR2CSA phát hiện những thay đổi của chondroitin o­ncofetal, có thể hướng đến mục tiêu điều trị ung thư ở người một cách rộng rãi bởi hợp chất thuốc sốt rét VAR2CSA trong cơ thể.

 

Các nhà nghiên cứu cho biết trong nhiều thập kỷ qua, các nhà khoa học đã tìm kiếm điểm tương đồng giữa sự phát triển của nhau thai và một số khối u. Nhau thai là một cơ quan chỉ trong vòng một vài tháng phát triển từ vài tế bào thành một cơ quan có trọng lượng xấp xỉ 0,907 kg và nó cung cấp oxy và dưỡng chất cho phôi thai trong một môi trường khá lạ. Nói theo cách nào đó, khối u cũng hoạt động như vậy và sẽ phát triển nhanh trong một môi trường khá lạ.

Nhóm nghiên cứu đang thử nghiệm một loại vaccine chống lại bệnh sốt rét ở người, đồng thời kết hợp theo dõi diễn biến của thuốc, tình cờ phát hiện ra rằng các cacbohydrat trong nhau thai cũng có mặt trong các khối u. Các cacbohydrat mà ký sinh trùng sốt rét tự gắn vào trong nhau thai giống hệt với carbohydrat đã tìm thấy trong các tế bào ung thư. Nhóm nghiên cứu vắc xin sốt rét ngay lập tức liên lạc với nhóm nghiên cứu ung thư. Qua hợp tác, hai nhóm đã tạo ra các kết quả đem lại hy vọng cho việc tìm kiếm thuốc chống ung thư.

Nghiên cứu chức năng của carbohydrat phát hiện carbohydrat giúp đảm bảo sự tăng trưởng nhanh chóng trong nhau thai cũng như trong các khối u. Kết quả sau khi kết hợp ký sinh trùng sốt rét với các tế bào ung thư cho thấy ký sinh trùng đã tự gắn vào các tế bào ung thư như thể chúng là một nhau thai.

Với sự hợp tác làm việc các nhóm nghiên cứu 2 trường đại học đã thử nghiệm hàng ngàn mẫu từ khối u não đến ung thư bạch cầu và nổi lên bức tranh chung là protein sốt rét có thể tấn công hơn 90% các loại khối u. Các thuốc đã được thử nghiệm trên chuột được cấy ghép với 3 loại khối u của người, đó là u lympho không Hodgkin, u ác tính tuyến tiền liệt và u ác tính xương di căn. Với ung thư mô bạch huyết không Hodgkin, các khối u ở chuột được điều trị bằng khoảng 1/4 kích thước khối u ở nhóm đối chứng

 

Với ung thư tuyến tiền liệt, các khối u đã biến mất ở 2 trong số 6 con chuột được điều trị trong vòng 1 tháng sau khi được tiêm những liều đầu tiên. Với ung thư xương di căn, 5 trong số 6 con chuột được điều trị vẫn còn sống sau gần 8 tuần, trong khi đó không có chuột nào sống sót trong nhóm đối chứng. Nhóm nghiên cứu giải thích rằng bằng cách tách các protein sốt rét đã tự gắn vào các carbohydrat và sau đó tiêm vào độc tố, qua tiến hành thử nghiệm trên chuột, nhóm đã phát hiện rằng sự kết hợp của protein và độc tố có thể tiêu diệt các tế bào ung thư.

Dường như các protein sốt rét tự gắn với các khối u mà không cần bất kỳ sợi dây nào nối đến các mô khác. Chuột được tiêm các liều protein và độc tố có tỷ lệ sống sót cao hơn so với chuột không được điều trị. Với 3 liều protein-độc tố có thể làm ngăn chặn sự tăng trưởng trong một khối u và thậm chí làm cho nó teo lại. Tuy nhiên, trở ngại thực tế là không có sự sẵn sàng cho việc điều trị ở phụ nữ mang thai. Nói chung, độc tố sẽ cảm thấy nhau thai là một khối u, hay tương tự khối u là một nhau thai và độc tố sẽ tiêu diệt khối u. Sau phát hiện này, 2 đơn vị này sẽ thúc đẩy phát triển nghiên cứu lâm sàng và đang hướng tới khả năng tiến hành thử nghiệm trên người.

Dự tính thời gian sớm nhất có thể đưa ra thử nghiệm trên người là trong vòng 4 năm tới. Câu hỏi đặt ra là liệu cơ chế này có tác dụng trên cơ thể người hay không, và liệu cơ thể người có thể dung nạp các liều cần thiết mà không bị phản ứng phụ? Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu vẫn lạc quan vì cho rằng protein hình như chỉ tự gắn vào một carbohydrat mà carbohydrat này chỉ được tìm thấy trong nhau và trong các khối u ác tính ở người.

Đếm ký sinh trùng cải tiến hỗ trợ kính hiển vi trong nghiên cứu KSTSR kháng thuốc

Các nhà nghiên cứu tại WWARN đã làm việc với các chuyên gia của phòng thí nghiệm Global Good-Intellectual Ventures và Đại học Công nghệ Queensland để sản xuất một công cụ mới, được thế kế hỗ trợ các nhà nghiên cứu sử dụng kính hiển vi trong nghiên cứu bệnh sốt rét.

Công cụ tính toán Obare Method calculator là một công cụ tính toán dựa trên chương trình Excel của Microsoft dùng để nhập liệu, so sánh và báo cáo kết quả thu được từ kính hiển vi. Công cụ này được thế kế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của các nhà nghiên cứu thực hiện các thử nghiệm lâm sàng sử dụng cẩm nang các phương pháp kính hiển vi mới xuất bản trên trang web Chương trình Nghiên cứu và Đào tạo đặc biệt về các bệnh nhiệt đới (WHO-TDR) của Tổ chức Y tế thế giới.

Cẩm nang về Kính hiển vị phát hiện, xác định và định lượng ký sinh trùng sốt rét trên lam kính nhuộm màu giọt dày và giọt mỏng tại các địa điểm nghiên cứu, nâng cao tính chắc chắn trong phát hiện, nhận dạng và định lượng ký sinh trùng sốt rét cùng với công cụ tính toán Obare Method Calculator cho phép các nhà khoa học thực hiện đánh giá có hệ thống các kết quả của hai lần đọc lam kính có phù hợp nhau hay yêu cầu lần đọc thứ ba, bằng việc tính toán mật độ ký sinh trùng trung bình các lần đọc trên lam kính dương. Nó cũng tạo thuận tiện cho báo cáo các kết quả đồng nhất. Tiến sĩ Mehul Dhorda, Giám đốc Chương trình Đảm bảo chất lượng ngoại kiểm của Mạng lưới Nghiên cứu kháng thuốc sốt rét toàn cầu (WWARN) nói rằng công cụ tính toán mới là miễn phí cho các nhà nghiên cứu sốt rét, cho phép họ đưa ra các kết quả có chất lượng cao một cách nhanh chóng và chắc chắn. Nó bổ sung cho cẩm nang sử dụng kính hiển vi sốt rét của TCYTTG và là một nguồn vô giá để nâng cao chất lượng sử dụng kính hiển vi trong nghiên cứu lâm sàng liên quan đến sốt rét.

Để sử dụng công cụ Obare Method Calculator, người sử dụng phải nhập một tài khoản xác nhận riêng cho mỗi trang xử lý số liệu. Công cụ này cho phép người sử dụng lựa chọn: (i) Loại lam (dày hay mỏng) có mật độ ký sinh trùng được sử dụng để đánh giá; (ii) Số lượng ký sinh trùng như tổng số, hay tính riêng lẻ mỗi loài ký sinh trùng xác định trên mỗi lam; (iii) Nhiều phương pháp tính toán mật độ ký sinh trùng. Công cụ tính toán sẽ cho kết quả đồng nhất nếu kết quả từng trang dữ liệu là phù hợp nhau, hay khuyến cáo soi thêm lần thứ 3 nếu công cụ phát hiện các kết quả là không phù hợp nhau theo tiêu chuẩn như sau: (i) Các loài ký sinh trùng; (ii) Sự có mặt/ hay vắng mặt của các dạng ký sinh trùng vô tính; (iii) Mật độ ký sinh trùng.

 

Tiến sĩ Michelle Gatton, Giảng viên thâm niên tại khoa Y tế của Đại học Công nghệ Queensland cho biết thêm: “Tính đúng và chính xác số lượng và loài ký sinh trùng sốt rét là tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả các thuốc điều trị sốt rét, các thiết bị chẩn đoán, và các vaccin mới. Soi lam máu nhuộm màu là một chuẩn tham chiếu chính được sử dụng trong nghiên cứu lâm sàng và điều trị, và rất cần thiết để chúng ta làm việc cùng nhau để đảm bảo tính chắn chắn và tin cậy của các kết quả tính toán. Công cụ Obare Method Calculator là một sử bổ sung rất được hoan nghênh vào bộ công cụ của chúng ta phục vụ cho nghiên cứu sốt rét. Công cụ dựa trên ý tưởng của Peter Obare tại Viện Nghiên cứu Y khoa Kenya (KEMRI). Tiến sĩ Bernhards Ogutu, Nghiên cứu viên trưởng tại KEMRI nói: “Peter là một nhà nghiên cứu sốt rét tự lập, tận tâm và chân thành, có sự say mê lớn trong các cải tiến nâng cao chất lượng sử dụng kính hiển vị trong nghiên cứu sốt rét. Ông ấy đã có công trong việc xây dựng Trung tâm Chẩn đoán Sốt rét Ưu việt của Dự án KEMRI-Walter Reed, Kisumu, Kenya. Công cụ tính toán này chỉ là một cống hiến khiêm tốn của Peter Obare trong việc ghi nhận đóng góp của ông đối với sự phát triển phương pháp kiểm soát chất lượng soi kính hiển vi trong nghiên cứu bệnh sốt rét nói riêng cũng như đối với sự cải thiện chất lượng chẩn đoán sốt rét nói chung.

Với đội ngũ dảm bảo chất lượng ngoại kiểm (EQ), giúp: (i) Cung cấp cho các phòng thí nghiệm các tiêu chuẩn tham chiếu của thuốc đã được chứng nhận; (ii) Cung cấp dịch vụ xét nghiệm thành thạo để giúp các phòng thí nghiệm tham gia chương trình cải thiện chất lượng kết quả; (iii) Cung cấp các quy trình có sẵn một cách miễn phí như hướng dẫn từng bước về chiết tách DNA.

Hơn nữa, đảm bảo cải thiện chất lượng dữ liệu đầu ra: (i) Chương trình nguyên liệu chuẩn - cung cấp cho các phòng thí nghiệm các nguyên liệu tiêu chuẩn của thuốc sốt rét đã được thẩm định để giảm thiểu sai lệch gây ra từ tiêu chuẩn chất lượng nguyên liệu thấp và cải thiện tính chính xác của các dữ liệu giữa các phòng thí nghiệm; (ii) Xét nghiệm thành thạo, trợ giúp khoa dược lý, thử nghiệm trong phòng thí nghiệm và các phòng thí nghiệm sinh học phân tử để đánh giá khả năng của họ về thực hiện phân tích thuốc, giải quyết bất kỳ vấn đề có thể phát sinh nào và cải thiện kết quả của họ. Với cách làm như thế, các phòng thí nghiệm cải thiện liên tục chất lượng dữ liệu phòng chống sốt rét được xuất bản và chia sẻ.

Bản đồ các phòng thí nghiệm liên kết với đội ngoại kiểm chất lượng trên toàn cầu (EQA)

          
 
 

Thông tin

PK/PD

In vitro

Phân tử

Chất lượng điều trị sốt rét

Kiểm tra độ thành thạo

 

Kiểm tra kết quả phòng thí nghiệm dựa vào các tiêu chuẩn toàn cầu

Nghiên cứu thí điểm

Không

Nguyên liệu chuẩn

 

Nguyên liệu thuốc sốt rét chuẩn được cân trước

 

Không


            Soi kính hiển vi chất lượng cao các lam máu nhuộm màu vẫn là một tiêu chuẩn chính để phát hiện, xác định và định lượng ký sinh trùng sốt rét trong nghiên cứu. Công cụ tính toán Obare Method Calculator là phương tiện hỗ trợ các nhà nghiên cứu sử dụng kính hiển vị trong nghiên cứu sốt rét bằng tính toán mật độ ký sinh trùng trung bình và đánh giá hai mẫu máu có phù hợp hay không. Nó là một công cụ dựa trên nền Microsoft Excel đã được phát triển nhằm tạo sự thuận lợi trong việc tham gia thực hiện các khuyến cáo về kiếm soát chất lượng nội bộ (IQC) được nói rõ trong cẩm nang các phương pháp xuất bản gần đây ‘Kính hiển vi phát hiện, xác định và định lượng các ký sinh trùng sốt rét trên lam máu nhuộm màu giọt dày và giọt mỏng tại các điểm nghiên cứu’ (WHO, 2015).

            Về thực hành, người sử dụng phải nhập một tài khoản (ID) riêng cho mỗi trang dữ liệu nhập vào để đánh giá, công cụ này cho phép người sử dụng lựa chọn: (i) Loại lam (dày hoặc mỏng) đánh giá mật độ ký sinh trùng; (ii) Số lượng ký sinh trùng như tổng số, số lượng riêng của mỗi loài ký sinh trùng được xác định trên lam (tất cả các loài ký sinh trùng phát hiện phải được khai báo ngay cả trong trường hợp muộn); (iii) Nhiều phương pháp tính ký sinh trùng: lam giọt dày-số ký sinh trùng trên microlit, tổng số bạch cầu và tổng số ký sinh trùng đếm được (cùng với số vi trường soi bằng mắt và sự phóng đại của thấu kính trên kính hiển vi); lam giọt mỏng-số lượng ký sinh trùng trên microlit, tổng số hồng cầu và tổng số ký sinh trùng; (iv) Dữ liệu nhập vào được ghi vào một trang excel riêng trong một file Excel.
 

Ngày 24/02/2016
TS.BS. Huỳnh Hồng Quang và Ths. Phạm Nho  

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích