|
(anh sưu tầm) |
Giám sát hiệu lực thuốc kháng sốt rét
Các thuốc kháng sốt rét có hiệu lực là cực kỳ quan trọng để phòng chống sốt rét và giám sát liên tục hiệu lực của thuốc kháng sốt rét là cần thiết nhằm thông tin về chính sách điều trị ở các quốc gia lưu hành sốt rét, và để đảm báo phát hiện sớm và dáp ứng tới sự đề kháng thuốc. Nghiên cứu hiệu quả điều trịNghiên cứu hiệu quả điều trị là sự chuẩn hóa việc đo lường hiệu lực thuốc, và các kết quảlà được sử dụng bởi chương trình phòng chống sốt rét quốc gia nhằm hướng dẫn các quyết định mang tính chính sách về điều trị sốt rét và đảm bảo xử lý thích hợp các ca lâm sàng. Các nghiên cứu như thế là cũng được sử dụng để phát hiện sự kháng thuốc nghi ngờ. Trong một vài thập kỷ qua, một số thuốc có hiệu lực cao đã được sử dụng trên diện rộng mang tính toàn cầu nhưng dần dần bị loại bỏ khỏi chính sách điều trị do sự xuất hiện tình trạng kháng thuốc. Bảo vệ hiệu lực của thuốc dẫn chất dựa vào artemisinin (ACTs), một thuốc điều trị ưu tiên cho Plasmodium falciparum là một ưu tiên trên toàn cầu. Hiệu lực thuốc kháng sốt rét được đo lường thông qua nghiên cứu hiệu quả điều trị (thường được gọi là nghiên cứu in vivo) đánh giá đáp ứng các khía cạnh về lâm sàng và ký sinh trùng đối với các điều trị được quan sát trực tiếp ở các trường hợp sốt rét không biến chứng. Hiệu quả là được đo lường như là tỷ lệ người tham gia nghiên cứu đáp ứng về mặt lâm sàng và ký sinh trùng đến điều trị vào ngày cuối cùng của nghiên cứu (đặc biệt vào ngày 28 hay ngày 42 với những thuốc có thời gian bán hủy dài hơn). Với các nhiễm trùng xuất hiện trong quá trình theo dõi, genotyping phải được tổ chức giám sát nhằm phân biệt nhiễm mới với sự tái nhiễm có nguồn gốc ban đầu. Để xác định sự đề kháng các nghiên cứu này cần được bổ sung bởi nghiên cứu vivo /hay nghiên cứu vitro về tính nhạy cảm của ký sinh trùng đối với thuốc trong nuôi cấy, nghiên cứu dược động học đo lường nồng độ thuốc ở trong máu và phân tích phân tử về ký sinh trùng. Các khuyến cáo của WHOWHO khuyến cáo rằng các chương trình phòng chống sốt rét quốc gia lựa chọn các thuốc kháng sốt rét có tỷ lệ sạch ký sinh trùng trên 95%, và giám sát đều đặn hiệu lực thuốc sốt rét trong sử dụng để đảm bảo rằng các thuốc được chọn vẫn còn hiệu quả. Người ta khuyến cáo rằng các điểm sentinel cần được thiết lập cho việc giám sát hiệu lực thuốc kháng sốt rét và rằng hiệu lực của các thuốc điều trị ưu tiên một hay ưu tiên hai với P.falciparum phải được thử nghiệm ít nhất một lần trong vòng 24 tháng ở tất cả các vị trí. Thuốc sốt rét ưu tiên một phải bị thay đổi nếu tỷ lệ thất bại chung vượt quá 10%. Một ưu tiên tức thì là đánh giá hiệu quả của liệu pháp ACT ở các quốc gia nơi không có các nghiên cứu được thực hiện trong hai năm qua.. Để giải thích và so sánh kết quả trong và giữa các vùng và theo dõi khuynh hướng theo thời gian việc giám sát hiệu quả phác đồ điều trị phải được tổ chức với các phương pháp chuẩn hóa giống nhau. WHO đã phát triển một protocol tạm thời cho việc thử nghiệm hiệu lực thuốc được chuẩn hóa. Một cách chung nhất, các nghiên cứu chuẩn hóa này hình thành từ một phần hệ thống giám sát trên thế giới nhằm làm cho thuận tiện giám sát và chính sách ngăn chặn kháng thuốc sốt rét. Cứ mỗi 5 năm, WHO xuất bản một báo cáo tóm tắt các nghiên cứu này, trong khi các năm can thiệp ở giữa, dữ liệu tiếp tục cập nhật, và dữ liệu được làm sẵn có thông qua một loạt các bản đồ tương tác. Protocaol cho việc giám sát hiệu lực thuốc sốt rét ở trong các vùng có sự lan truyền rất thấp hiện đang được thí điểm.
|