Home TRANG CHỦ Thứ 3, ngày 23/04/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Finance & Retail Chuyên đề
Dịch tễ học
Côn trùng học
Nghiên cứu lâm sàng & điều trị
Ký sinh trùng sốt rét
Ký sinh trùng
Sinh học phân tử
Sán lá gan
Sốt xuất huyết
Bệnh do véc tơ truyền
Vi khuẩn & Vi rút
Sán
Giun
Nấm-Đơn bào
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 2 5 0 1 1 4 8
Số người đang truy cập
1 7 0
 Chuyên đề Nghiên cứu lâm sàng & điều trị
Liên quan giữa nhiễm bệnh giun truyền qua đất với thiếu máu trên phụ nữ mang thai qua các dẫn liệu nghiên cứu của WHO

Một vài dẫn liệu trong tháng 4/2014 trên Website của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đề cập về gánh nặng toàn cầu các bệnh lý giun sán trong đó mối liên quan giữa bệnh giun truyền đất với thiếu máu trên phụ nữ mang thai.

Mối liên quan về các bệnh lý giun sán này bao gồm:

            +  Nhiễm trùng các giun truyền qua đất (Soil-transmitted helminth_STHs) gây ra bởi nhiều loại giun sán khác nhau;

            +  Chúng lân truyền thông qua trứng có mặt trong phân người, gây nhiễm vào môi trường đất tại các vùng có điều kiện vệ sinh kém;

            +  Khoảng 2 tỷ người bị nhiễm giun truyền qua đất trên phạm vi toàn cầu;

 

            +  Nhiễm trùng ở trẻ em dẫn đến chậm phát triển về mặt thể chất, rối loạn dinh dưỡng và nhận thức;

            +  Các biện pháp phòng chống dựa trên:

                 -  Sổ giun định kỳ để loại bỏ nhiễm trùng;

                 -  Giáo dục sức khỏe để ngăn ngừa tái nhiễm;

                 -  Nâng cao điều kiện vệ sinh để làm giảm sự nhiễm trùng trong đất với các trứng giun sán.

            +  Sử dụng thuốc an toàn và hiệu quả sẵn có để tránh và kiểm soát nhiễm trùng.

Nhiễm trùng STHs là một trong những bệnh lý nhiễm trùng nghiêm trọng nhất trên thế giới và ảnh hưởng đến các cộng đồng đói nghèo nhất. Bệnh lây truyền thông qua nhiễm trứng có trong phân người đã có mặt trong đất nơi mà điều kiện vệ sinh kém. Các loài chính của giun tròn gây nhiễm trên người là giun đũa Ascaris lumbricoides, giun tóc Trichuris trichiura và giun móc/ mỏ Necator americanusAncylostoma duodenale).

Phân bố toàn cầu và tỷ lệ mắc bệnh

Hơn 1,5 tỷ người hoặc 24% dân số thế giới nhiễm nhóm bệnh STHs. Nhiễm trùng phân bố rộng rãi tại các quốc gia và vùng lãnh thổ nhiệt đới và cận nhiệt đới, Với số ca lớn nhất là xảy ra tại các quốc gia cận sa mạc Sahara, Châu Phi, châu Mỹ và Đông Á. Hơn 270 triệu người nhiễm là trê em trước tuổi đi học và hơn 600 trẻ em tuổi đi học sống trong các vùng nơi mà sự lan truyền mạnh và cao và có nhu cầu điều trị cũng như dự phòng.

 

Các bệnh giun truyền qua đất (STHs) lây truyền qua các trứng đo qua phân của các đối tượng bị nhiễm. Các giun trưởng thành sống trong ruột non - ở đó chúng sinh ra hàng ngàn trứng mõi ngày. Các các nơi mà điều kiện vệ sinh kém, hoặc không đảm bảo thì các trứng nhiễm này có thể gây nhiễm vào trong đất. Điều này có thể xảy ra theo một số con đường sau:

            +  Trứng dính vào trong các rau quả được tiêu thụ hàng ngày không được nấu chín hoặc xử lý kỹ;

            +  Các trứng nhiễm vào trong nguồn nước;

            +  Các trứng bị nuốt phải các trẻ em chơi đùa trong các sân chơi có cát hoặc đất và rồi chúng mút tay hoặc đưa tay vào miệng mà chưa rửa sạch.

 

Ngoài ra, trứng giun móc mỏ đẻ vào trong đất, ly giải các ấu trùng rồi chúng trưởng thành có thể tự chui qua da con người. Người bị nhiễm phải với trứng giun móc mỏ do đi chân đất trên các vùng đất bị ô nhiễm.

Không có con đường lây truyền trực tiếp từ người sang người, hoặc nhiễm trùng trong các phân tươi vì trứng đi qua khỏi phân cần thời gian khoảng 3 tuần trưởng thành trong đất trước khi nhiễm. Vì các giun này không nhân lên trong cơ thể vạt chủ người, nên chỉ có sự tái nhiễm mới xảy ra như một hậu quả từ sự tiếp xúc với giai đoạn nhiễm của ấu trùng trong môi trường ô nhiễm.

Tỷ lệ tử vong và triệu chứng

Tỷ lệ mắc bệnh liên quan đến số lượng giun nhiễm và ký sinh, người nhiễm trùng nhẹ thường không biểu hiện triệu chứng, nếu người nhiễm trùng nặng hơn có thể gây một loạt các triệu chứng bao gồm đặc điểm trên hệ tiêu hóa (tiêu chảy, đau bụng), suy nhược toàn thân và yếu chi, suy giảm nhận thức và chậm phát triển thể chất.

Nhiễm trùng giun móc có thể gây nên thiếu máu và mất máu đường ruột mạn tính. Các ảnh hưởng về mặt dinh dưỡng:

 

Các bệnh STHs dẫn đến suy giảm tình trạng dinh dưỡng của nhiều người theo nhiều con đường khác nhau. Suy giảm dinh dưỡng gây ra bởi STHs được nhận ra có tác động ý nghĩa lên sự phát triển thể chất.

            +  Giun sẽ ăn chất dinh dưỡng của mô vật chủ gồm có máu, điều này dẫn đến mất chất sắt và protein;

            +  Giun làm tang thêm tình trạng kém hấp thu các vi chất dinh dưỡng. Ngoài ra, các giun tròn có thể hoàn thành để hấp thu tốt vitamin A trong ruột.

            +  Một số bệnh giun truyền qua đất cũng có thể gây chán ăn và do đó sẽ gảm đi hấp thu các chất dinh dưỡng và thể chất vì thế sẽ giảm sút đi rất nhiều. Đặc biệt, giun tóc T. trichiura có thể gây tiêu chảy và giả lỵ.

TCYTTG khuyến cáo điều trị thuốc định kỳ hay sổ giun mà không cần chẩn đoán trước đó đối với tất cả mọi người nguy cơ đang sống trong vùng bệnh lưu hành.

Điều trị nên tiến hành một lần một năm khi tỷ lệ mắc STHs trong cộng đồng > 20%, và 2 lần mỗi năm khi tỷ lệ mắc STHs trong cộng đồng vượt 50%. Sự can thiệp này làm giảm tỷ lệ mắc bệnh thông qua làm giảm gánh nặng giun sán. Ngoài ra, cần bổ sung thêm các biện pháp sau:

            +  Giáo dục sức khỏe và vệ sinh đẻ giảm lan truyền và tái nhiễm thông qua khuyến khích các khâu vệ sinh;

            +  Cung cấp và trang bị đủ vệ sinh là rất quan trọng nhưng không phải luôn luôn có thể đạt được ở các nơi trang bị kém.

Mục đích của các hoạt động phòng chống là kiểm soát các tỷ lệ mắc bệnh: điều trị định kỳ các quần thể có nguy cơ sẽ làm giảm cường độ nhiễm và bảo vệ các cá nhân nhiễm bệnh từ tỷ lệ mắc đó. Sổ giun định kỳ có thể lồng ghép một cách dễ dàng với các chương trình chăm sóc y tế cho trẻ em hay các chương trình bổ sung cho trẻ em trước tuổi đi học hoặc lồng ghép vào các chương trình y tế học đường.

Vào năm 2011, trên 300 triệu trẻ em tuổi đi học và trước đi học đươc điều trị bằng thuốc chống giun sán tại các quốc gia có bệnh lưu hành, phù hợp với 30% số trẻ em có nguy cơ.

 

Các trường cung cấp một danh sách đầu vào đặc biệt để hoạt động sổ giun có hiệu quả, vì chung cho phép dễ dàng cung cấp các thành phần bổ sung và nâng cao về giáo dục y tế và vệ sinh như thúc đẩy việc vệ sinh tay và nâng cấp điều kiện vệ sinh.

Các loại thuốc khuyến cáo tử Tổ chức Y tế thế giới

Các thuốc được TCYTTG khuyến cao khuyên dùng – albendazole (400 mg) và mebendazole (500 mg) rất hiệu quả, không đắt tiền và dễ sử dụng bởi các nhân viên không phải là trong ngành y tế (ví dụ các giáo viên). Chúng dã được kiểm tra là các loại thuốc rất an toàn và đã từng sử dụng trên hàng triệu người và có tác dụng ngoại ý không đáng kể. Cả thuốc albendazole và mebendazole đều được cung cấp đến các quốc gia thông qua TCYTTG.

Mục tiêu toàn cầu
 

Mục tiêu toàn cầu là loại trừ tỷ lệ mắc bệnh do bệnh giun truyền qua đất ở trẻ em vào năm 2020. Điều này sẽ đạt được thông qua điều trị thường xuyên ít nhất 75% số trẻ em tại các vùng bệnh lưu hành (ước tính đến 873 triệu người).

Đáp ứng của Tổ chức Y tế thế giới

Vào năm 2001, các đại biểu thuộc đại hội đồng y tế thế giới (World Health Assembly) đồng thuận về nghị quyết (WHA54.19), điều này thúc đẩy các quốc gia có bệnh lưu hành bắt đầu ngặn chặn nhiễm giun nghiêm trọng, đặc biệt bệnh sán máng và bệnh giun truyền qua đất.

Chiến lược để phòng chống bệnh STHs là ngăn ngừa và khống chế tỷ lệ mắc bệnh thông qua sổ giun định kỳ cho nhóm quần thể có nguy cơ cao đang sống tại các vùng bệnh lưu hành. Các đối tượng có nguy cơ là:

            +  Các trẻ em lứa tuổi trước khi đến trường;

            +  Các trẻ trong độ tuổi đi học;

            +  Các phụ nữ đang trong độ tuổi sinh để (bao gồm cả phụ nữ mang thai trong 3 tháng giữa và 3 tháng cuối và phụ nữ đang cho con bú).

Sổ giun định kỳ có thể dễ dàng lồng ghép với ngày sức khỏe trẻ em hay chương trình bổ sung vitamine A cho các trẻ trước tuổi đi học hoặc lồng ghép vào các chương trình y tế học đường.

Các trường học cung cấp một đầu vào quan trọng đối với các hoạt động chương trình sổ giun, cũng như chúng cung cấp đễ dàng cách tiếp cận các thành phần giáo dục sức khỏe và nâng cao vệ sinh, như thúc đẩy và nâng cao ý thức rửa tay và cải thiện vệ sinh.

Tiếp cận thuốc điều trị và sổ giun sán

Sự cung cấp thuốc sổ giun thông qua TCYTTG sẵn có đến các quốc gia có bệnh lưu hành để điều trị cho tất cả trẻ em tuổi đi học. Năm 2012, có 285 triệu trẻ em cần phải điều trị thuốc giun sán cho bệnh STHs theo độ bao phủ toàn cầu là 32,6%.

Bằng chứng mới đây xác định rằng nhiễm giun tóc Trichuris trichiura trong khi mang thai không chỉ liên quan đến gia tăng nguy cơ thiếu máu mà còn làm giảm hiệu quả của việc bổ sung chất sắt.

Trong bài viết này, tác giả Theresa W. Gyorkos Nicolas L. Gilbert (7/2014) thảo luận về điều đó bởi vì tẩy giun bằng albendazole mebendazole chống lại giun tóc ít hiệu quả hơn so với giun móc/mỏ. Can thiệp nếu chỉáp dụng bằng thuốc tẩy giun có thể không đủ làm giảm tình trạng thiếu máu, đặc biệt là ở các khu vực giun tóc lưu hành. Chỉ tiết bài viết này được đăng vào ngày 10/7/2014 trên website thư viện khoa học (PLoS), Mỹ http://www.plosntds.org/article.

Thiếu máu và sức khỏe bà mẹ

Nguyên nhân chính của thiếu máu thiếu sắt, thiếu máu dẫn đến thiếu oxy cung cấp cho các mô tế bào trong cơ thể. Lượng sắtthu nhận có thể không đủ vì chế độ ăn uống hàng ngày chứa hàm lượng sắt thấp, sắt non-heme hoặc do hấp thu sắt kém nguyên nhân là dotiêu hóa cùng lúc với các chất ức chế như ngũ cốc hạt. Ngoài ra, sắt có thể bị mất vì nhiễm ký sinh trùng, do ký sinh trùng tiêu diệt các tế bào máu đỏ, chẳng hạn như các loài Plasmodium gây bệnh sốt rét hoặc ký sinh trùng tiêu hóa tế bào máu đỏ chẳng hạn như các loài giun đất truyền qua đất (soil-transmitted helminths - STHs).

 

Bình thường sự phân phối hemoglobin khác nhau tùy theo độ tuổi, giới tính và tình trạng sức khỏe. Trong số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, ngưỡng thiếu máu là 11 g/dL cho phụ nữ mang thai và 12 g/dL đối với phụ nữ không mang thai. Thiếu máu ở phụ nữ mang thai là mối quan tâm đặc biệt vì nó liên quan với tử vong mẹ. Mối liên quan này đã được biết đến trong nhiều năm và đã được xác nhận bởi bằng chứng gần đây từ các nghiên cứu thuần tập. Tổ chức Y tế thế giới ước tính tỷ lệ thiếu máu trên toàn thế giới 30% ở phụ nữ mang thai và 20% ở phụ nữ không mang thai, với mức độ cao hơn tập trung ở phụ nữ sống tại các nước đang phát triển. Ước tính tỷ lệ bệnh thiếu máu ở phụ nữ mang thai cao nhất ở châu Phi (55,8%) và châu Á (41,6%) và thấp nhất ở Bắc Mỹ (6,1%) và châu Âu (18,7%).

 

Bằng chứng liên kết giun truyền qua đất và thiếu máu

 

            Mối liên hệ giữa
nhiễm giun móc/mỏ bệnh thiếu máuđược biết đến rõ ràng. Nhiễm giun móc/mỏ được công nhận là một yếu tố nguy cơ đối với bệnh thiếu máu ở cả phụ nữ mang thai và phụ nữ không mang thai. Ở phụ nữ mang thai, một phân tích được công bố năm 2008 cho thấy ngay cả ở cường độ nhiễm giun móc nhẹ (1-1.999 trứng/gram) có liên quan đến việc giảm đáng kể Hb trong máu lượng Hb giảm làm tăng cường độ nhiễm. Kể từ đó, các nghiên cứu mới đã cung cấp thêm bằng chứng tài liệu về ảnh hưởng bất lợi của nhiễm giun móc/mỏ đến các mức độ Hb.

Các bằng chứng liên quan giữa giun tóc Trichuris trichiura với bệnh thiếu máu chưa rõ ràng. Hầu hết các nghiên cứu về Hb/thiếu máu ở phụ nữ mang thai so với phụ nữ nhiễm giun tóc phụ nữ không bị nhiễm giun tóc, và kết quả cho thấy mối liên quan này không có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, không có nghiên cứu trong số những nghiên cứu này đã phân biệt giữa các mức độ nhiễm giun tóc.

Một nghiên cứu duy nhất đã kiểm tra các mức độ nhiễm giun tóc, kết quả cho thấy phụ nữ mang thai bị nhiễm giun tóc ở mức độ trung bình hoặc nặng trong ba tháng giữa của thai kỳ có ý nghĩa thống kê mức Hb thấp hơn so với những người không nhiễm hoặc nhiễm giun tóc Trichuris ở cường độ thấp, mặc dù tất cả các phụ nữ đều được bổ sung sắt. Điều đó cho thấy mối liên quan giữa cả nhiễm giun tóc Trichuris gia tăng cường độ nhiễm giun tóc, cũng như tăng nguy cơ thiếu máu và mặc dù đã bổ sung sắt.

Hơn nữa, có những bằng chứng hạn chế chứng minh rằng, trong các trường hợp nhiễm phối hợp giữa giun tóc Trichuris với giun móc/mỏ (hookworm), nguy cơ thiếu máu tăng với cường độ ngày càng tăng của nhiễm giun tóc hoặc nhiễm giun móc/mỏ. Tuy nhiên, việc có nhiều nghiên cứu thêm nữa là điều cần thiết đối với vấn đề này.

 

Các mô hình tương tự cũng đã được quan sát thấy ở trẻ em. Một số nghiên cứu đã chỉ ra mối liên quan giữa nhiễm giun tóc giảm nồng độ Hb, hoặc thiếu máu, trong khi những người khác có không. Tuy nhiên, có sự khác biệt lớn giữa các nghiên cứu này liên quan đến các mức độ lưu hành phương pháp phân tích. Ví dụ, hầu hết các nghiên cứu cho thấy không có mối liên quan đã được tiến hành ở các cư dân nơi mà tỷ lệ hoặc phân bố cường độ nhiễm giun tóc thấp loại trừ các phân tích loại cường độ nhiễm.

Ngược lại, các nghiên cứu cho thấy mối liên quan giữa nhiễm giun tóc Trichuris và mức độ Hb thấp hơn bao gồm đủ số lượng của các đối tượng bị nhiễm bệnh để phân chia chúng thành các loại cường độ, tìm thấy mối liên hệ giữa loại cường độ nhiễm cao hơn và mức độ Hb thấp hơn.

Chiến lược kiểm soát và phòng chống bệnh giun truyền qua đất

Hiệu quả điều trị bằng thuốc diệt giun (anthelminthic) để giảm tình trạng thiếu máu khi mang thai đã được kiểm tra trong ba thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên (RCT) cho đến nay. Những điều này được kiểm tra trong hai tổng quan hệ thống phân tích tổng hợp, đã kết luận rằng các thuốc tẩy giun (anthelminthics) không làm tăng đáng kể nồng độ Hb hoặc giảm tỷ lệ bệnh thiếu máu trong khi mang thai.

Thiếu hiệu quả tẩy giun rõ ràng có thể được giải thích, một phần là do tỷ lệ nhiễm STH thấp ở hai trong 3 cộng đồng nghiên cứu. Do đó, những nghiên cứu này có thể không có đủ sức mạnh để phát hiện kết quả có ý nghĩa thống kê, nếu chúng tồn tại. Mặc khác có thể là hiệu quả hạn chế của thuốc tẩy giun chống lại T. trichiura (giun tóc). Như vậy, một phân tích tổng hợp gần đây của các RCT cho thấy thường được sử dụng điều trị một liều duy nhất với Albendazole (400 mg) hoặc mebendazole (500 mg) có hiệu quả hạn chế chống lại nhiễm giun tóc Trichuris, trong khi đó Albendazolehiệu quả hơn so với mebendazole chống lại giun móc/mỏ.

 

Trong khi các loại thuốc tẩy giun rất cần thiếtcác khu vực lưu hành nhưng chỉ riêng thuốc tẩy giun là không thể đủ để đạt được mục tiêu loại bỏ bền vững STHs và thiếu máu liên quan đến STH. Điều này cho thấy cần phải có một sự thay đổi "từ kiểm soát bệnh tật đến kiểm soát lan truyền". Ví dụ, vai trò của giáo dục sức khỏe, tích hợp vào một chiến lược can thiệp tổng thể và nhắm mục tiêu đến các nhân viên chăm sóc sức khỏe nhóm dân số mục tiêu.

Chiến lược này đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc làm giảm cả tỷ lệ nhiễm giun móc và thiếu máu. Tương tự như vậy, một tổng quan hệ thống gần đây đã chỉ ra rằng quản lý chất thải phù hợp vệ sinh môi trường (được định nghĩa là tiếp cận sử dụng các phương tiện để xử lý an toàn nước tiểu phân) liên quan đến việc giảm lan truyền giun đũa (Ascaris lumbricoides), giun tóc (T. trichiura) giun móc/ mỏ (hookworms).

Giảm bền vững thiếu máu ở người mẹ do STH là rõ ràng, điều này sẽ được hưởng lợi từ cả chiến lược phòng chống và kiểm soát ngắn hạn và dài hạn. Những nỗ lực để giải quyết các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (Millennium Development Goals - MDGs), đặc biệt MDG 5 (cải thiện sức khỏe bà mẹ) MDG 7 (ví dụ, mục tiêu 7C: giảm một nửa, đến năm 2015, tỷ lệ người dân không được tiếp cận với nước sạch vệ sinh cơ bản), sẽ góp phần đạt mục tiêu giảm.

 

Với sự quan tâm toàn cầu ngày càng tập trung vào giảm sự bất bình đẳng do các bệnh nhiệt đới bị bỏ quên (Neglected Tropical Diseases), bây giờ là thời gian đảm bảo một chiến lược đã được minh chứng, toàn diện, tích hợp cho cả tẩy giun ở những cá nhân bị nhiễm và ngăn ngừa nhiễm mới bằng cách triển khai các can thiệp vệ sinh môi trường và vệ sinh cá nhân.

 

Ngày 21/07/2014
TS. Nguyễn Văn Chương, ThS. Đỗ Văn Nguyên
và ThS.BS. Huỳnh Hồng Quang
 

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích